Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

 NHỮNG NHÂN VẬT LÃNH ĐẠO CỦA VIỆT NAM CỘNG HÒA VỚI VĂN BẰNG TIẾN SĨ NƯỚC NGOÀI VÀ HỆ THỐNG ĐẠI HỌC MIỀN NAM

Trong suốt thời kỳ Việt Nam Cộng Hòa (1955-1975), nền giáo dục Việt Nam đã chứng kiến sự phát triển vượt bậc so với thời gian trước đó, và sự xuất hiện của nhiều nhân tài trong lĩnh vực học thuật, đặc biệt là những tiến sĩ. Trong bối cảnh phát triển giáo dục với triết lý Nhân Bản, Dân Tộc và Khai Phóng, đã có nhiều sinh viên xuất sắc có cơ hội đi du học ở các nước phát triển như Mỹ, Pháp, Anh, và Nhật Bản. Theo học các chương trình học bổng và liên kết giữa các trường đại học Việt Nam và quốc tế , đã không ngừng tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho sinh viên Việt Nam tiếp xúc với nền giáo dục tiến bộ của thế giới, một số trong các vị tiến sĩ này đã về nước và cộng tác với chính quyền VNCH, để xây dựng một quốc gia tân lập, sau khi bị chia cắt bởi thực dân và cộng sản Bắc Việt.


Nơi bài viết này, chúng tôi sẽ giới thiệu một số tiêu biểu về các lãnh đạo trong chính quyền VNCH từng là những vị tiến sĩ đã từng theo học ở đại học nước ngoài và tốt nghiệp bằng tiến sĩ ở nước ngoài :

Giáo Sư Nguyễn Ngọc Huy
Học sinh trường Pétrus Trương Vĩnh Ký, thi đậu bằng Trung Học. Một trong học sinh đậu xuất sắc nhứt tại Đông Dương. Một chuyện thật lạ là Giáo sư Huy đã tự học để lấy bằng Tú Tài Việt Nam. Cũng như trên bước đường lưu vong chính trị tại Pháp (1955 – 1963) Giáo sư Huy đã ghi tên học trường Khoa Học Chính trị Paris và trường Ðại Học Luật Khoa và Khoa Học Kinh Tế Paris. Giáo sư Huy đỗ bằng tốt nghiệp Viện Nghiên Cứu Chính Trị Paris năm 1958, Cử Nhân Luật Khoa năm 1959, Cao Học Chính Trị năm 1960, và Tiến Sĩ Chính Trị Học năm 1963.


Quyển Đề Tài Người Ưu Tú Trong Tư Tưởng Chánh Trị Trung Quốc Cổ Thời. Quyển này chính là Luận Án Tiến Sĩ của Giáo Sư Huy và được chấm xuất sắc nhứt trong niên khóa 1962-1963 tại Viện Đại Học Paris.

Quyển Đề Tài Người Ưu Tú Trong Tư Tưởng Chánh Trị Trung Quốc Cổ Thời. Quyển này chính là Luận Án Tiến Sĩ của Giáo Sư Huy và được chấm xuất sắc nhứt trong niên khóa 1962-1963 tại Viện Đại Học Paris. Giáo sư Huy vào làm giáo sư Học Viện Quốc Gia Hành Chánh dạy về chính trị và luật hiến pháp, đồng thời làm giảng viên ở nhiều trường đại học khác: Viện Ðại Học Ðà Lạt, Viện Ðại Học Huế, Viện Ðại Học Cần Thơ, Viện Ðại Học Vạn Hạnh, Viện Ðại Học Minh Ðức, trường Ðại Học Sư Phạm Sài Gòn. Giáo sư Huy cũng được mời làm giảng viên ở các trường quân sự như trường Cao Ðẳng Quốc Phòng, trường Chỉ Huy Tham Mưu Cao Cấp, trường Ðại Học Chiến Tranh Chính Trị. Năm 1967, Giáo sư Huy được mời làm khoa trưởng trường Ðại Học Luật Khoa và Khoa Học Xã Hội Cần Thơ.

1973 và 1968-1970: Thành viên trong phái đoàn tham dự thương thuyết Hòa Đàm Paris. – 1967: Hội Viên Hội Đồng Dân Quân. – 1964: Đổng Lý Văn Phòng Phủ Phó Thủ Tướng Đặc Trách Bình Định.

Giáo sư Vũ Văn Mẫu

Giáo sư Vũ Văn Mẫu, Bộ trưởng Ngoại giao rồi Thủ tướng của Việt Nam Cộng hòa. Ngoài ra ông còn là Thẩm phán Tòa Thượng thẩm Sài Gòn, giáo sư thực thụ Đại học Luật khoa Sài Gòn. Ông được gia đình đưa sang học ở Pháp và tốt nghiệp Đại học Luật khoa Paris, Pháp. Ông tiếp tục theo học tại đây cho đến khi lấy được bằng Thạc sĩ và trở về hành nghề luật tại Hà Nội. Ông nuôi chí tiếp tục học, ghi danh học Cao học ở trường Đại học Luật, thi đỗ luôn hai bằng Cao học, trong đó có bằng Cao học Kinh tế. Sau Tháng Tám 1945, ông ở nhà, âm thầm chuẩn bị luận án tiến sĩ dưới sự hướng dẫn của giáo sư Camerlynck, năm 1948 sang Paris bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ Luật; trở về nước, ông được mời làm giảng sư Luật ở trường Đại học Luật Hà Nội.


Năm 1954, ông di cư vào Sài Gòn, được bổ làm Chánh Nhất Tòa Phá Án, đồng thời tham gia giảng dạy ở khoa Luật trường Đại học Sài Gòn, làm Trưởng khoa Luật, là trưởng khoa đầu tiên người Việt Nam. Ông nổi tiếng là một học giả lớn về Luật, là chuyên gia về Dân Luật và Cổ Luật, thành thạo nhiều ngoại ngữ Pháp, Anh, La Tinh, Hán, uyên thâm cả về cựu học lẫn tân học, được đồng nghiệp kính trọng, sinh viên tín nhiệm, quý mến. Khi tổng thống Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ và mời ông giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao của Việt Nam Cộng hòa. Ông giữ chức vụ này trong 8 năm, từ 1955 đến 1963. Và là thủ tướng 1 ngày của nội các Dương Văn Minh, vào cuối tháng 4 năm 1975.

Tiến sĩ Nguyễn Văn Hảo: Sau khi hoàn thành tiến sĩ tại Đại học Sorbonne, Pháp, với luận án về kinh tế phát triển, ông đã trở về Việt Nam và giữ nhiều vị trí quan trọng trong chính phủ, bao gồm Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế.

Tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng: Năm 1957, ông sang Hoa Kỳ và theo học ngành kinh tế tại Đại Học Virginia từ năm 1958 và tốt nghiệp tiến sĩ năm 1965. Sau đó ông làm phụ giảng tại vài trường đại học tại Hoa Kỳ. Từ 1966 đến 1970, ông là chuyên gia kinh tế của Quỹ tiền tệ quốc tế. Sau khi về nước, ông nắm giữ những chức vụ quản lý kinh tế quan trọng thuộc chế độ Đệ Nhị Cộng hòa: Phụ tá Tổng thống về Tái thiết (1971-1973); Tổng trưởng Kế hoạch và phát triển (1973-1975).

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Xuân Vinh:
Ông cũng là Giáo sư, Tiến sĩ, Viện sĩ chuyên ngành Kỹ thuật Không gian người Mỹ gốc Việt nổi tiếng trên thế giới. Năm 1962, ông là người Việt Nam đầu tiên và cũng là người đầu tiên ở Đại học Colorado được cấp bằng Tiến sĩ Khoa học Không gian sau khi thực hiện thành công nghiên cứu công trình tính toán quỹ đạo tối ưu cho tàu vũ trụ do NASA tài trợ. Những lý thuyết của ông đã góp phần quan trọng đưa các phi thuyền Apollo lên được Mặt Trăng thành công, đồng thời được ứng dụng vào việc thu hồi các tàu con thoi trở về Trái Đất an toàn. Ông còn là nhà văn với bút danh Toàn Phong với nhiều tác phẩm nổi tiếng được xuất bản. Ngoài ra các sách giáo khoa về Toán Học, Hình Học của giáo sư Nguyễn Xuân Vinh, in tại Việt Nam từ thập niên 50 cũng đã được rất nhiều sĩ tử Viet Nam dùng để học trong nhiều thập niên qua.




Giáo Sư Nguyễn Xuân Vinh là giáo sư Emeritus của Đại Học Michigan và Đại Học Paris về Khoa Học Không Gian. Ông là đại diện chính thức của Hoa Kỳ tại Ủy Ban Khoa Học Không Gian, Liên Hiệp Quốc, trong nhiều năm trời.

GS.Tiến Sĩ Nguyễn Thanh Liêm

Giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm, Thứ Trưởng Bộ Giáo dục VNCH GS Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm tốt nghiệp Iowa State University với bằng Ph. D. of Research and Evaluation in Education (Tiến sĩ giáo dục về Nghiên Cứu và Lượng Giá). Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm đã từng phục vụ trong các chức vụ sau đây trong lãnh vực giáo dục ở Việt Nam trước năm 1975: - Giáo sư Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký, Saigon. - Hiệu Trưởng Trung Học Trịnh Hoài Đức Bình Dương. - Hiệu Trưởng Trung Học Petrus Trương Vĩnh Ký, Saigon. - Chánh Thanh Tra trưởng ban soạn đề thi (kiêm trung tâm trưởng Trung Tâm Trắc Nghiệm và Hướng Dẫn) Tổng Nha Trung Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục, Saigon. - Chuyên viên Văn Hóa Giáo Dục, Văn Phòng Chuyên Viên Phủ Tổng Thống, Việt Nam Cộng Hòa. - Phụ Tá Đặc Biệt ngang hàng Thứ Trưởng, đặc trách Trung Tiểu Học và Bình Dân Giáo Dục, Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên, Việt Nam Cộng Hòa. - Thứ Trưởng Bộ Văn Hóa Giáo Dục và Thanh Niên, Việt Nam Cộng Hòa. - Theo kháng chiến chống Pháp (1945-1948). - Nhập ngũ Khóa 2 đặc biệt Trừ Bị Thủ Đức, 1968. Giáo sư và gia đình sang Mỹ năm 1975. Ở Mỹ giáo sư đã phục vụ trong các cơ quan: - Trung Tâm Nghiên Cứu Giáo Dục, Đại Học Iowa State University, Ames, Iowa. - Trung Tâm Nghiên Cứu Phát Triển Chương Trình Học và Tài Liệu Giáo Khoa, Đại Học University of Iowa, Iowa City, Iowa.


GS Tiến sĩ Nguyễn Thanh Liêm về hưu năm 1999 dành thì giờ hoạt động cho các hội đoàn như Lê Văn Duyệt, Vĩnh Long, Câu Lạc Bộ Trần Hưng Đạo, Nguyễn Đình Chiểu, Phan Thanh Giản, Văn Học Đồng Tâm và Câu Lạc Bộ Tình Nghệ Sĩ. Hiện là Trưởng Ban Tổ Chức Ngày VNCH để tiếp tục đệ nạp hồ sơ Thềm Lục Địa do cố Thủ Tướng Nguyễn Bá Cẩn thực hiện vào tháng 5-2009. Ngoài ra ông đã viết rất nhiều tài liệu nghiên cứu Văn Hóa Đồng Nai Cửu Long và các Đặc san trong cộng đồng...

Tiến sĩ Phạm Cao Dương:
Phạm Cao Dương, Tiến Sĩ Sử Học, Đại Học Paris-Pháp, trước năm 1975 là giảng sư tại các Đại Học Sư Phạm và Đại Học Văn Khoa, Viện Đại Học Saigon, đồng thời cũng là giáo sư thỉnh giảng tại các Đại Học Huế, Cần Thơ, Vạn Hạnh, Đà Lạt, Cao Đài… Ngoài việc dạy học, Giáo Sư Phạm Cao Dương còn là Hội Viên của các Hội Đồng Văn Hóa  Giáo Dục, Hội Đồng Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học và Uỷ Ban Điển Chế Văn Tự của Chính Phủ Việt Nam Cộng Hòa.





Trong phạm vi khảo cứu, Giáo Sư là tác giả của nhiều sách lịch sử và văn hóa Việt Nam xuất bản bằng tiếng Việt, tiếng Pháp và tiếng Anh trong đó có các tác phẩm Vietnamese Peasants Under French Domination, do Trung Tâm Nam và Đông Nam Á, Đại Học Berkeley và University Press of America cùng ấn hành năm 1985 và nhiều sách hay tài liệu giáo khoa khác. Riêng cuốn Vietnamese Peasants Under French Domination đã được phổ biến ở nhiều thư viện trên thế giới và được nhiều học giả quốc tế đánh giá cao. Giáo Sư Dương cũng từng là cộng tác viên của Trung Tâm Nam và Đông Nam Á, Đại Học Berkeley, Hoa Kỳ và Trung Tâm Quốc Gia Khảo Cứu Khoa Học Pháp.

Sau năm 1975, Ông định cư tại Hoa Kỳ và tiếp tục hoạt động trong các ngành giáo dục và nghiên cứu. Ông đã từng  giảng dạy về Lịch Sử, Văn Hóa và ngôn ngữ Việt Nam tại các Đại Học miền Nam California như UCLA, UCI, CSU Fullerton, CSU Long Beach.

Tiến sĩ Trần Hữu Thế:
Ông hoàn thành tiến sĩ khoa học vào năm 1952. Ông từng dạy học ở Lyon (Pháp) và làm giáo sư tại Trường Đại học Khoa học thuộc Viện Đại học Sài Gòn. Từ 1958 đến 1960, ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc gia Giáo dục và từng làm Đại sứ của Việt Nam Cộng hòa tại Philippines. Dưới thời Bộ trưởng Trần Hữu Thế, số lượng học sinh, sinh viên gia tăng nhanh chóng, và nhiều cải tiến trong giáo dục đã được thực hiện. Đại hội Giáo dục Quốc gia lần thứ nhất được tổ chức ở Sài Gòn vào năm 1958, chính thức hóa ba nguyên tắc nhân bản, dân tộc, và khai phóng làm nền tảng cho triết lý giáo dục Việt Nam Cộng Hòa.

Tiến sĩ Nguyễn Xuân Oánh:

Ông từ nhỏ đã được giáo dục theo Tây học. Lớn lên ông được gia đình cho sang Mỹ theo học tại Đại học Harvard về ngành Kinh tế. Ông tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế của Harvard năm 1954, rồi làm việc cho Ngân hàng Thế giới (như một Nhân viên kinh tế), Tổ hợp Tài chính Quốc tế... trước khi về nước.


Năm 1963, ông về nước và tham gia chính quyền. Sau đó ít lâu, ông được đề cử làm Thống đốc Ngân hàng Quốc gia, rồi Phó Thủ tướng Việt Nam Cộng hòa. Thậm chí, đã có lúc ông được ủy quyền Thủ tướng trong giai đoạn tướng Nguyễn Khánh nắm quyền (1964-1965).
Ông là chồng của minh tinh nổi tiếng Thẩm Thúy Hằng, người nổi tiếng với danh hiệu "Người đẹp Bình Dương"

Tiến sĩ Nguyễn xuân Oánh còn là nhân vật được biết tới, là người giữ lại 16 tấn vàng trong ngân hàng quốc gia VNCH, để trao lại cho chính quyền cộng sản , sau ngày 30 tháng 4 năm 1975. Sau đó ông cũng tham gia hoạt động trong hệ thống chính trị của chính quyền cộng sản.

Tiến sĩ Đỗ Bá Khê: Ông hoàn thành bậc tiến sĩ giáo dục tại Viện Đại học Southern California. Ông đã giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục, và Thanh niên thời Đệ nhị Cộng hòa và thiết lập hệ thống các trường đại học cộng đồng ở miền Nam Việt Nam. Ông cũng là người sáng lập Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức vào năm 1974 và giữ vai trò viện trưởng sáng lập.


Những vị tiến sĩ này tu nghiệp ở nước ngoài và đã về phục vụ đất nước, không chỉ đóng góp cho nền giáo dục mà còn có ảnh hưởng lớn đến nhiều lĩnh vực khác như kinh tế, chính trị, và văn hóa, tham gia tích cực vào các hoạt động xã hội, từ việc tổ chức các hội thảo, diễn đàn khoa học cho đến việc tư vấn, xây dựng chính sách cho chính phủ. Đào tạo tiến sĩ tại Miền Nam trước 1975 Việt Nam Cộng Hòa đã đầu tư mạnh mẽ vào giáo dục với mục tiêu xây dựng một nền tảng tri thức vững chắc cho quốc gia. Trước năm 1975, Viện Đại học Sài Gòn và Viện Đại học Huế là hai cơ sở đào tạo tiến sĩ chính ở miền Nam Việt Nam.

Viện Đại học Sài Gòn:

Tổ chức đại học ở miền Nam theo lối của người Pháp. Ở một thành phố lớn, người ta lập ra một viện đại học (Université), trong đó có nhiều phân khoa (Faculté), trường (École),. Đứng đầu viện đại học là Viện trưởng (recteur), phân khoa là khoa trưởng (doyen), trường là giám đốc (directeur).

Viện Đại học Sài Gòn là một viện đại học công lập ở Sài Gòn, được thành lập vào tháng 3 năm 1957 bởi chính quyền Việt Nam Cộng Hoà. Đây là viện đại học được xem là có uy tín nhất ở miền Nam Việt Nam thời bấy giờ, cung cấp các giáo sư đi thỉnh giảng ở các viện đại học khác. Viện đại học này cấp bằng cử nhân, thạc sĩ, và tiến sĩ.

Viện đại học Sài Gòn gồm có tám phân khoa:
Văn khoa
Luật khoa
Y khoa
Dược khoa
Nha khoa
Khoa học
Sư phạm
Trường Cao đẳng kiến trúc.



Các phân khoa này đào tạo từ cử nhân, cao học đến tiến sĩ​. Chương trình tiến sĩ: Để đạt học vị tiến sĩ, sinh viên cần có chứng chỉ cao học và phải tìm được giáo sư bảo trợ để soạn luận án. Nếu luận án được Hội đồng Giám khảo thông qua, sinh viên sẽ nhận được học vị Tiến sĩ​.

Học trình: Chương trình tiến sĩ quốc gia kéo dài từ 5 đến 7 năm, trong đó sinh viên cần phải trình luận án tại Pháp​.

Viện Đại học Sài-gòn, Huế, Cần Thơ, Đại học Bách Khoa Thủ Đức, các trường Cao đẳng và Đại học Cộng đồng của chính phủ đều được đặt dưới quyền điều hành của Bộ Giáo Dục. Các quyết định quan trọng như tuyển dụng hay thăng ngạch trật của giáo sư, mua sắm vật liệu hay chi phí xây dựng đều phải trình cho Bộ trưởng duyệt ký. Riêng chức vụ Viện trưởng là do Tổng thống bổ nhiệm, nhưng dưới thời Đệ nhị Cộng hoà thì việc bổ nhiệm Viện trưởng phải được Quốc hội thông qua sau một buổi điều trần về đường lối và tổ chức Đại học. Tiếp theo đó, Thủ tướng bổ nhiệm các Phó Viện trưởng theo đề nghị của Viện trưởng nhưng không cần phải thông qua Quốc hội. Chữ ký của Viện trưởng trên các văn bằng Đại học luôn luôn theo sau dòng chữ “Thừa ủy nhiệm Bộ trưởng Giáo dục”. Các khoản viện trợ từ bên ngoài cho phảt triển Đại học cũng phải qua ngân sách của Bộ Giáo dục ngoại trừ dưới hình thức hiện vật như sách vở, trợ huấn cụ, máy móc, hay giáo sư thỉnh giảng (visiting professors) không do chính phủ Việt Nam trả lương. Nguồn viện trợ thường là các chương trình ngoại viện của các chính phủ Pháp, Mỹ, Úc, Tân-Tây-Lan . . . Về học vụ, mặc dù nội dung chương trình giảng dạy thuộc thẩm quyền của Đại học, việc tổ chức các phân khoa, thi cử và văn bằng cùng với mọi sáng kiến thay đổi hay dự án mới đều phải được sự chấp thuận của Bộ Giáo dục. Tóm lại, Bộ Giáo Dục giữ vai trò điều hợp tổng quát các đại học để thống nhất về mặt triết lý giáo dục, quản trị nhân viên và tài chánh (trừ Học Viện Quốc Gia Hành Chánh huấn luyện công chức là trực thuộc phủ Tổng Thống)

Đọc thêm về Viện Đại Học Sài Gòn:


Giáo dục Đại học của các nước dân chủ tự do như Việt Nam Cộng Hòa là phải nói đến quyền tự trị của Đại học. Đó là hướng chung của đại học ở các nước dân chủ như một điều kiện ắt có và đủ cho sự phát triển của con người và xã hội. Điều 10 trong Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa năm 1967 ghi rõ: “Nền giáo dục Đại học được tự trị”. Điều này thể hiện tinh thần khai phóng trong triết lý giáo dục miền Nam được xác định trong Đại hội giáo dục lần thứ nhất năm 1958, với ba nguyên tắc căn bản là “nhân bản, dân tộc, khai phóng”. Đại hội này được tổ chức với sự tham gia của đại diện giáo chức các cấp trên toàn quốc cùng một số trí thức độc lập bên cạnh các đại diện của Bộ Giáo dục. Mọi quyết định của hội nghị đều là kết quả của những cuộc thảo luận và biểu quyết hoàn toàn tự do không có bất cứ sự can thiệp nào của chính quyền. Tinh thần khai phóng ở Đại học được thể hiện rõ rệt nhất trong việc tiếp nhận những kiến thức khoa học tiến bộ và những giá trị văn hóa nhân bản của thế giới nhằm xây dựng xã hội tiến bộ và phát triển toàn diện con người.

Vào thời điểm năm 1961, Trường Đại học Khoa học có 2.135 sinh viên theo học; Trường Đại học Y khoa có 1.490 sinh viên. Các phân khoa kia là Luật khoa, Văn khoa, Dược khoa, Sư phạm, và Kiến trúc. Tính tất cả các phân khoa thì Viện Đại học Sài Gòn niên khóa 1963 có 14.854 sinh viên ghi danh, và đến năm 1973 thì đạt 64.000. Viện trưởng cuối cùng của viện đại học Sài Gòn là giáo sư Trần Văn Tấn, Tiến sĩ Toán Vật Lý Lý thuyết, Toulouse 1959.

Viện Đại học Huế:

Nếu ai có đọc cuốn “Bên giòng lịch sử” của linh mục Cao Văn Luận, mới thấy công lao của Tổng thống Ngô Đình Diệm và linh mục Cao Văn Luận trong buổi bình minh của việc thành lập Viện Đại học Huế.
Cha là người linh mục độc nhất làm Viện trưởng một Viện Đại học công lập. Nếu giáo sư Nguyễn Quang Trình là ông Viện trưởng đầu tiên, có công hóa giải sự chống đối việc thành lập Viện Đại học Huế của một số khoa bảng Sài Gòn bấy giờ thì cha Luận là ông Viện trưởng đã xây dựng và hình thành những cơ sở chính yếu của Viện Đại học Huế: khởi đầu là trường Luật, Văn khoa, Khoa học, Sư phạm. Sau đó thêm trường Y. Viện Đại Học Huế cũng có chương trình đào tạo cấp tiến sĩ, ương tự như Viện Đại học Sài Gòn, sinh viên sau khi hoàn thành chương trình cử nhân và cao học có thể tiếp tục nghiên cứu và soạn luận án tiến sĩ. Các chương trình đào tạo tiến sĩ ở cả hai viện đại học đều đòi hỏi sinh viên phải hoàn thành các chứng chỉ cao học và tìm được giáo sư hướng dẫn để soạn và bảo vệ luận án trước Hội đồng Giám khảo​. Bằng tiến sĩ từ các trường đại học ở VNCH có giá trị cao và được công nhận quốc tế.


Các trường đại học VNCH có mối quan hệ hợp tác với nhiều trường đại học và tổ chức giáo dục quốc tế, đặc biệt là từ Pháp và Hoa Kỳ. Sinh viên tốt nghiệp từ các chương trình tiến sĩ tại VNCH thường có cơ hội tiếp tục học tập và làm việc tại các trường đại học và tổ chức nghiên cứu hàng đầu trên thế giới.
Ngày xưa, có 2 danh xưng tiến sĩ của giáo dục VNCH, đó là Tiến sĩ Quốc gia và Tiến sĩ Đệ tam cấp. Tiến sĩ Quốc gia là danh hiệu cao nhất trong hệ thống giáo dục bậc cao của Việt Nam Cộng Hòa.

Viện Đại Học Cần Thơ:

Là một viện đại học công lập ở thành phố Huế, được thành lập vào năm 1957 dưới chính thể Việt Nam Cộng Hoà, được thành lập vào năm 1966 theo sắc lệnh 2-SL/GD. Viện Đại học Cần Thơ khi khai giảng vào cuối Tháng Chín có bốn phân khoa đại học:
Khoa học, Luật khoa và Khoa học Xã hội, Văn khoa, Sư phạm.

Phân khoa Sư phạm có Trường Trung học Kiểu mẫu. Ngoài ra Viện Đại học Cần Thơ có Trường Cao đẳng Nông nghiệp đào tạo hệ kỹ sư và Trung tâm Sinh ngữ giảng dạy chương trình ngoại ngữ cho sinh viên. Sau này Viện Đại học Cần Thơ có mở thêm phân khoa Canh nông. Đây là viện đại học thứ năm của Việt Nam Cộng hòa (bốn viện đại học kia là Viện Đại học Sài Gòn, Viện Đại học Huế, Viện Đại học Đà Lạt, và Viện Đại học Vạn Hạnh).

Viện đại học bách khoa Thủ Đức Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức (Thủ Đức Polytechnic University, gọi tắt là Thủ Đức Poly) là một viện đại học công lập có khuôn viên chính nằm ở Thủ Đức, tỉnh Gia Định được thành lập vào năm 1973 và đi vào hoạt động vào năm 1974 dưới chính thể Việt Nam Cộng hòa. Viện đại học bách khoa là một cơ sở giáo dục đại học đa ngành, đa lĩnh vực, và chú trọng đến các ngành thực dụng (như kỹ thuật, nông nghiệp, lâm nghiệp, thú y) - đây là điểm khác biệt giữa mô hình "viện đại học bách khoa" và mô hình "viện đại học". Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức được thành lập dựa theo mô hình các polytechnic university ở tiểu bang California, Hoa Kỳ, thời đó như: California Polytechnic State University ở San Luis Obispo và California State Polytechnic University ở Pomona. Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức được thành lập bởi Sắc Lệnh số 264-TT/SL do Tổng thống Việt Nam Cộng hòa Nguyễn Văn Thiệu ký ngày 29/3/1973. Tiến sĩ Đỗ Bá Khê Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Giáo dục và Thanh Niên được cử làm Viện trưởng Viện Đại học Bách Khoa Thủ Đức. Sang năm sau Học viện Quốc gia Kỹ thuật được biến cải thành Trường Đại học Kỹ thuật và sáp nhập vào Viện Đại học Bách khoa Thủ Đức bởi Sắc lệnh số 010-SL/VHGDTN do Thủ tướng Trần Thiện Khiêm ký ngày 11 Tháng Giêng năm 1974. Tiến sĩ Nguyễn Thanh Toàn được cử làm Khoa trưởng Trường Đại học Kỹ thuật.

Học Viện Quốc Gia hành Chánh Trường Quốc gia Hành chánh được Quốc trưởng Bảo Đại ký sắc luật thành lập ngày 07 tháng 04 năm 1952.[Hạt nhân của Trường lúc đầu là Trường Đại học Luật khoa ở Hà Nội với một bộ phận dời lên Đà Lạt.Trường lúc đó thuộc Bộ Quốc gia Giáo dục với học trình hai năm nhưng sau giao cho Phủ Thủ tướng rồi Phủ Tổng thống.


Năm 1955, sau khi thành lập nước Việt Nam Cộng hòa, Trường chuyển về Sài Gòn đặt ở đường Alexandre de Rhodes gần Dinh Độc Lập rồi lại dời về số 10 đường Trần Quốc Toản, Quận 3, vào năm 1958.[ Cơ sở vật chất gồm có giảng đường 500 chỗ, ký túc xá cho 114 sinh viên, thư viện với hơn 100.000 văn bản, nhà sinh hoạt, sân quần vợt, sân bóng chuyền.
Việc thành lập trường do Đại học Tiểu bang Michigan/Michigan State University(MSU) trợ giúp trong việc soạn giáo trình.] Kho sách của trường được coi là một trong những thư viện lớn nhất của Việt Nam Cộng hòa.] Chương trình đào tạp: 1- Tham sự hai năm, 2-Đốc sự/Giám sự ba năm rưỡi 3-Cao học Sinh viên mới ra trường được đề cử làm: Phó Quận trưởng (tại các quận) Trưởng ty (tại Tòa Hành chánh Tỉnh) hay Phó Tỉnh Trưởng (Tòa Hành chánh Tỉnh). Tại các Bộ chuyên môn ở Trung ương thì Đốc sự có thể kiêm nhiệm Chủ sự các Phòng, Chánh sự vụ các Sở, hay Giám đốc các Nha.

Cao học là hai năm đào tạo thêm dành cho sinh viên đã tốt nghiệp Đốc sự hoặc có bằng cử nhân các ngành học về khoa học xã hội. Cho đến năm 1975 có tất cả tám khóa Cao học(cả Ngoại giao). Các môn học gồm những kiến thức như Soạn thảo Công văn, Kế toán Thương mại, Định chế Chính trị, Luật Hành chánh, Quốc tế Công pháp, Luật Hiến pháp, Xã hội học và cả Huấn luyện Quân sự tại các Trung tâm Huấn luyện Đồng Đế Nha Trang, Quang Trung, và Thủ Đức. Viện trưởng đầu tiên của trường là giáo sư Nguyễn Văn Bông (1963-1971). Ông bị VC ám sát ngày 10/11/1971 tại Sài Gòn.

Tiến sĩ Quốc gia, tương đương với bằng Ph.D quốc tế, thường được trao cho những người đã hoàn thành nghiên cứu sâu rộng và có đóng góp lớn trong lĩnh vực chuyên môn của họ. Để đạt được danh hiệu này, ứng viên thường phải bảo vệ luận án tiến sĩ trước một hội đồng chuyên môn, bao gồm các giáo sư và chuyên gia hàng đầu.

Tiến sĩ Đệ tam cấp (docteurde troisième cycle) có thể tương đương với bậc thạc sĩ hiện nay, ở mức độ thấp hơn so với Tiến sĩ Quốc gia. Tiến sĩ Đệ tam cấp thường dành cho những người đã hoàn thành chương trình đào tạo tiến sĩ và bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, nhưng không yêu cầu mức độ đóng góp nghiên cứu cao như Tiến sĩ Quốc gia. Quá trình đánh giá và công nhận Tiến sĩ Đệ tam cấp cũng dựa trên tiêu chuẩn chuyên môn và bảo vệ luận án trước hội đồng. Nhìn chung, sự khác biệt giữa hai danh xưng này nằm ở mức độ công nhận và yêu cầu về đóng góp nghiên cứu của ứng viên. Tiến sĩ Quốc gia thường được xem là danh hiệu cao quý và uy tín hơn so với Tiến sĩ Đệ tam cấp.

Tài liệu tham khảo: -Wikipedia, tiếng Việt Viện Đại Học Sài Gòn Viện Đại Học Huế Viện Đại Học Cần Thơ Viện ĐẠi Học Bách Khoa Thủ Đức Trung Tâm Quốc Gia Kỷ Thuật Phú Thọ Học viện Quốc Gia Hành Chánh Viện ĐẠi Học Bách Khoa Thủ Đức - Nguyễn Thanh Liêm, Giáo dục ở miền Nam tự do trước 1975 (Education in South Vietnam before 1975), Lê Văn Duyệt Foundation, California, 2006. - Nguyễn Văn Lục. Lịch sử Còn Đó. Garden Grove, CA: Tân Văn, 2008 - The University of Huế, Viet-Nam Bulletin No. 24 (1970). Bản PDFLưu trữ 2006-10-12 tại Wayback Machine. - Nền Giáo dục Việt Nam Dưới Chính Thể Quốc gia (1945-1975) - Học Viện Quốc Gia Hành Chánh https://quocgiahanhchanhmd.com/hoc-vien-quoc-gia-hanh-chanh-2/

Bài biên khảo vẩn còn rất nhiều thiếu sót, rất mong được bạn đọc bổ túc, để các thế hệ hậu duệ VNCH có tài liệu để tham khảo về Giáo dục bậc Đại Học của miền nam trước 1975.

Vũ Thái An, người lính VNCH, 28 November 2025

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét