Thứ Tư, 30 tháng 12, 2015

NÉT CHÂN QUÊ CỦA 
CHIẾC ÁO YẾM XƯA VÀ NAY

Chiếc áo yếm nửa kín, nửa "hờ hững" tôn lên tấm lưng ong nhỏ nhắn của người phụ nữ Việt xưa, khiến bao chàng trai phải ngẩn ngơ nhìn theo.
Thời xưa, người ta đề cao vẻ đẹp thắt đáy lưng ong ở phái yếu. Cái đáy lưng nhỏ nhắn như lưng ong ấy không chỉ được xem là chuẩn mực của vẻ đẹp mà còn thể hiện sự nết na, đức hạnh của một người vợ, người mẹ. Áo yếm là một trang phục của người ph nữ VN ngày xưa, một thứ nội y nay gọi là áo lót



Về nguồn gốc của chiếc áo yếm, theo các nhà nghiên cứu trang phục thì có thể yếm ra đời từ thời Lý (1). Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cho tới nay vẩn chưa đưa một chứng minh thuyết phục là tại sao nó ra đời vào thời kỳ này. Yếm của phụ nữ Việt Nam thực ra là chiếc áo lót như quan niệm của người phương Tây, phía trước yếm che kín đến tận cổ. Từ trẻ con đến phụ nữ cao tuổi đều mặc yếm. Song đáng nói chính là chiếc yếm với thiếu nữ.

Vào mùa hè, xứ đàng ngoài(2) nóng bức nên các bà, các cô chỉ mặc độc chiếc yếm nên yếm vừa là áo lót và cũng chính là áo ngoài và họ đi cùng làng cuối ngõ với chiếc yếm. Còn mùa đông, gió đông bắc thổi lạnh cắt da cắt thịt thì cái yếm ở yên bên trong với nghĩa là chiếc áo lót hiền lành.

Áo Yếm trong ca dao tục ngữ:

Thực ra người Việt ý thức được sự “khoe khoang” hay “hững hờ” của cái yếm phụ nữ trong cuộc sống hàng ngày nhưng dường như họ cứ mặc. Yếm đi vào thơ ca hò vè khi thì bóng gió, cũng có khi nói toạc ra. Trong trích đoạn Thị Mầu lên chùa của vở Quan Âm Thị Kính có câu: 

“Gió xuân tốc dải yếm đào. 
Chàng trông thấy oản sao không vào thắp hương?”.

Trong tình cảm, yếm là vật để các chàng trai mang ra trêu chọc, thách thức khi hát đối:

“Trời mưa lấy yếm mà che.
 Có anh đứng gác còn e nỗi gì”.

Các cô cũng chẳng vừa đáp lại:

 “Ước gì sông hẹp tầy gang. 
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi”.

Yếm cũng tượng trưng cho tình cảm của các cô gái trong chuyện trao gửi tình cảm: “Trầu em têm tối hôm qua. Buộc trong dải yếm mở ra mời chàng”.

Hay mong ước của chàng trai và cũng có thể là lời của một cô gái gửi cho người mình yêu: 

“Trời mưa trời gió kìn kìn. 
Đắp đôi dải yếm hơn nghìn chăn bông”.

Trong bài thơ “Chân quê” của Nguyễn Bính, chiếc yếm lại trở thành “chuẩn đạo đức” cho các cô gái ở nông thôn: 

“Còn đâu cái yếm lụa sồi.
 Cái dây lưng đũi nhuộm hồi sang xuân...”.





 Nếu cái yếm ở các miền quê Bắc bộ chỉ đơn thuần là chiếc áo lót may bằng vải thô nhuộm nâu hay bằng đũi thì ở Thăng Long - Hà Nội, không chỉ là chiếc áo lót mà nó trở thành vật trang điểm cho người phụ nữ và càng hấp dẫn hơn khi yếm được may bằng lụa với hình dạng khác nhau, từ cổ tròn, đến cổ chữ V...

Từ màu nâu ở thôn quê ra Thăng Long lại là màu trắng, màu xanh lơ, hoa hiên và màu hoa đào phơn phớt. Song khác với phụ nữ ở vùng quê có thể mặc yếm ra đường mà không ai dị nghị và dè bỉu thì phụ nữ - nhất là phụ nữ chưa chồng - ở Thăng Long không bao giờ chỉ mặc độc chiếc yếm ra đường vì mặc như vậy bị cho là con nhà kém văn hoá, thiếu sự chăm sóc cẩn thận của các bậc làm m.

Áo yếm của phụ nữ Hà Nội đầu thế kỷ 20 (ảnh xưa)


Thăng Long - Hà Nội còn có hẳn chợ chuyên bán yếm lụa là “Đồng Lạc quyến yếm thị” ở phường Đồng Lạc và phường Đại Lợi, tổng Tiền Túc, huyện Thọ Xương (nay là đình Đồng Lạc ở 38 phố Hàng Đào). Đình thờ ba vị trong tứ trấn thành Thăng Long là Bạch Mã Thành hoàng Quốc đô, Thánh Linh Lang (thờ chính ở đền Voi Phục Thủ Lệ) và Thánh Cao Sơn trấn phía Nam (thờ chính ở đình Kim Liên).

 Tại đây có tấm bia đá tạc sau rằm tháng tám năm Bính Thìn 1856 đời Tự Đức, do cử nhân Phạm Đình Viên người phủ Khoái Châu, Hưng Yên soạn. Mở đầu có đoạn: “Đình chợ bán yếm lụa do Hiệu chủ Nguyễn Công Trung và vợ là Nguyễn Thị Từ Thiết xây dựng đời Lê, quy mô rộng rãi. Nhưng vì chiến tranh, đình bị phá hủy. Về sau, ông Hà Đình Nguyễn Cảnh Thê đứng ra lo việc trùng tu lại...”.

Áo yếm phụ nữ VN( ảnh xưa)

Song truyền thống phụ nữ xưa thường tự mua lấy lụa may yếm cho mình thì tại sao Thăng Long - Hà Nội lại còn xuất hiện cả một cái chợ dành cho phường bán yếm? Có lẽ gọi là chợ yếm nhưng ở đó bán cả những sản phẩm tuyệt hảo của tơ tằm để đàn bà, con gái Thăng Long rủ nhau đến chọn lụa may yếm và không chỉ thế, họ còn sắm sửa lụa là gấm vóc để may quần áo tứ thân, năm thân, áo cánh, dây lưng, khăn vấn… và kể cả đồ trang sức vàng bạc nữa…

 Thời kỳ hậu Lê (3), đàn bà lao động mặc yếm cổ xây (miếng vải vuông đặt chéo trên ngực người mặc, ở góc trên có khoét hình tròn). Phụ nữ quyền quý thì trước yếm có thêm một vài đường dây tết lại với nhau thành hình lưới quả trám. Màu sắc của những chiếc yếm thời kỳ này còn giản đơn, chủ yếu được nhuộm bằng những loại màu có nguồn gốc tự nhiên. Và không chỉ là vật trang điểm, yếm của phụ nữ Thăng Long - Hà Nội còn thể hiện nghề nghiệp và đẳng cấp trong xã hội. Con gái quan lại mới được mặc yếm màu đại hồng, các cô làm nghề ca kỹ thường mặc yếm màu hoa đào, màu được cho là lẳng lơ, không đứng đắn.

Những cô gái con nhà khá giả thường mặc yếm
 màu may từ loại vải đắt tiền.

Phụ nữ giầu có còn cho gắn các viên ngọc lên cổ. Yếm cũng làm nên sự lịch lãm và tinh tế của phụ nữ Kinh kỳ khi mặc kiểu áo 5 khuy, các cô chỉ cài 4 khuy dưới và để hở khuy ngực khoe cái yếm cổ xây, ôm lấy cái cổ cao ba ngấn nõn nà. Trong các ghi chép của nhiều người Pháp đến Hà Nội cuối thế kỷXIX thì họ đều sửng sốt trước cái yếm. Bác sỹHocrquad viết: “Chỉ có một mảnh vải đơn sơ trước ngực nhưng nó làm cho cánh đàn ông phải suy nghĩ nhất là các cô gái thắt chiếc dây ở ngang lưng một cách lỏng lẻo”.


 Cùng với nón có quai tua, chân đi guốc, yếm xanh, yếm đào là mốt của con gái nhà khá giả cuối thế kỷXIX, đầu thế kỷ XX. Mốt này còn kéo dài cho đến đầu những năm 30 thế kỷ XX khi mà Nguyễn Nhược Pháp phải lòng người đẹp: “Nho nhỏ cái đuôi gà cao. Em đeo cái dải yếm đào. Quần lĩnh áo the mới. Tay em cầm chiếc nón quai thao. Chân em đi đôi guốc cao cao”.

Cùng với nón có quai tua, chân đi guốc, yếm xanh, yếm đào là mốt của con gái nhà khá giả cuối thế kỷXIX, đầu thế kỷ XX. Mốt này còn kéo dài cho đến đầu những năm 30 thế kỷ XX khi mà Nguyễn Nhược Pháp phải lòng người đẹp: “Nho nhỏ cái đuôi gà cao. Em đeo cái dải yếm đào. Quần lĩnh áo the mới. Tay em cầm chiếc nón quai thao. Chân em đi đôi guốc cao cao”.

 Trải qua thời gian, chiếc yếm có sự thay đổi, tuy nhiên có một thứ không bao giờ thay đổi là 4 chiếc dây, hai dây buộc cổ và hai dây buộc ngang thắt lưng. Chỉ cần hai dây buộc thắt lưng mà thắt lỏng là câu chuyện đã khác, vì thắt lỏng hai bên sườn lộ ra, có lẽ vì thế mà có câu: “Đàn ông mặc áo đuôi lươn. Đàn bà mặc áo hở lườn mới xinh”.


 Chiếc yếm dường như ít được phụ nữ mặc hơn vào cuối những năm 1930 khi mà lối sống Pháp, thời trang Pháp ngày càng trở nên phổ biến trong giới trẻ. Đến đầu những năm 1950 thì không còn thấy phụ nữ mặc yếm, trừ những người có tuổi. Thay thế chiếc yếm là chiếc áo lót kiểu phương Tây được nhập vào Việt Nam. Bây giờ chiếc yếm xưa lại sống lại, tuy nhiên nó được cải tiến, không may bằng lụa mà may bằng vải thô mỏng, cổ khoét sâu hơn cốt để khoe bờ ngực. 


Hình ảnh những cô gái thướt tha trong tà áo dài duyên dáng từ lâu đã trở thành biểu tượng của Việt Nam. Tuy nhiên, nhìn lại quá trình phát triển lịch sử trang phục dân tộc, Việt Nam không chỉ có áo dài mà còn có áo yếm - thứ trang phục không thể thiếu của người con gái xưa.

Ngày xưa áo yếm thường chỉ được gọi với cái tên nôm na là cái yếm, đó là thứ trang phục đã có từ bao đời nay và vẫn còn giữ được cho đến ngày hôm nay. Yếm là một thứ trang phục nội y không thể thiếu của người phụ nữ Việt xưa. Nó là một tấm vải hình thoi hoặc hình vuông có sợi dây để quàng vào cổ và buộc vào sau lưng, được dùng để che ngực.


Không chỉ vào chốn cung đình với các mệnh phụ công nương, cái yếm còn ra ruộng đồng "dầm mưa dãi nắng" với người nông dân và cùng với chiếc áo tứ thân, cái yếm theo chị em đến với hội đình đám, góp phần tạo nên bộ "quốc phục" của quý bà thời xưa.

Khi xưa ở với mẹ cha
Một năm chín yếm xót xa trong lòng
Từ khi em về nhà chồng
Chín năm một yếm, em lật trong ra ngoài.

Một số nhà nghiên cứu cho rằng chiếc yếm được ra đời là để tôn lên cái lưng ong vốn được xem là một nét đẹp của người phụ nữ trong văn hóa Việt Nam.


Theo quan niệm truyền thống của người Việt, một cô gái đẹp là phải có cái lưng được thắt đáy nhỏ nhắn như cái lưng ong. Người Việt xưa cho rằng những cô gái với cái lưng ong không chỉ mang một dáng hình đẹp mà còn có đầy đủ tất cả những đức hạnh của một người vợ, người mẹ.

Đàn bà thắt đáy lưng ong
Đã khéo chiều chồng lại khéo nuôi con.


Cái yếm xuất hiện trong cuộc sống của người dân Việt Nam không biết tự lúc nào và mãi tới đời nhà Lý (Thế kỷ 12) cái yếm mới "định hình" về cơ bản. Theo dòng lịch sử, cái yếm không ngừng biến đổi, nâng cao tính thẩm mỹ qua những lần cải tiến.

Thuyền anh ngược thác lên đây
Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền.
Ở gần mà chẳng sang chơi
Để em ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu.
Mồng tơi chẳng bắc được đâu
Em cởi dải yếm bắc cầu anh sang


Ở thế kỷ 17, cái yếm vẫn chưa có sự thay đổi lớn lao về hình thức. Thế kỷ 19, cái yếm có hình vuông vắt chéo trước ngực, góc trên khoét lỗ làm cổ, hai đầu của lỗ, đính hai mẩu dây để cột ra sau gáy.

Nếu cổ tròn gọi là yếm cổ xây, cổ nhọn đầu hình chữ V gọi là yếm cổ xẻ, đít chữ V mà xẻ sâu xuống gọi là yếm cổ cánh nhạn. Bước sang thế kỷ 20, áo yếm càng được sử dụng phổ biến với nhiều kiểu dáng và mẫu mã phong phú.

Dành cho người lao động có yếm màu nâu dệt bằng vải thô. Người lớn tuổi mặc yếm màu thẫm.



Con gái nhà gia giáo mặc yếm nhiều màu, trang nhã và kín đáo. Loại yếm "ỡm ờ", màu sặc sỡ, cổ cắm sâu trễ quá bờ ngực, "thách thức" chỉ dân "trời ơi" dạng Thị Mầu mới mặc. 



Thời kỳ "cách tân" này, cổ yếm thường được "dằn" thêm ba đường chỉ để "bảo hiểm" hoặc may viền lằn vải, thêu hoa cặp theo đường biên cổ.

"Em đeo giải yếm đào
Quần lĩnh áo the mới
Tay cầm nón quai thao".



Một loại yếm hay được các cô gái sử dụng nữa là "yếm đeo bùa". Gọi là yếm đeo bùa bởi người mặc chúng thường để xạ hương vào trong túi vải nhỏ đeo cạnh yếm, đó chính là thứ vũ khí vô cùng lợi hại của các cô gái thời xưa...

Không chỉ vậy, chiếc yếm còn làm nên những câu chuyện tình yêu vô cùng độc đáo. Xưa, các cô gái khi hẹn hò người mình yêu thường "ém" một miếng trầu trong chiếc yếm của mình, dân gian gọi đó là "khẩu trầu dải yếm". Có lẽ không có thứ trầu nào "linh thiêng" hơn loại trầu dải yếm này.
- Để trở thành "quốc phục" của quý bà quý cô trước khi chiếc áo dài ra đời, đi kèm với cái yếm là chiếc áo cánh khoác ngoài không cài cúc.

Khi ra ngoài bên ngoài chiếc yếm phải có thêm chiếc áo dài, chiếc váy lưỡi trai bằng lĩnh, dải lụa đào hoặc màu mỡ gà thắt ngang lưng, cái xà tích bạc lủng lẳng, bộ "độ nghề" ǎn trầu bên phía cạnh sườn, chân mang dép.

Chưa hết, phục trang ra đường còn phải kể đến là hai chiếc khǎn đội đầu: khǎn nhiễu (quấn bên trong) và khǎn mỏ quạ (trùm bên ngoài). Nếu đúng dịp hội hè đình đám các cô gái thường trang bị thêm cho mình chiếc nón quai thao, tóc vấn cao cài lược.

Suốt chiều dài lịch sử, cái yếm đã đi vào "giấc mơ" của biết bao thế hệ mày râu. 

"Trời mưa lấy yếm mà che 
Có anh đứng gác còn e nỗi gì?". 

Đáp lại, các nàng cũng chẳng vừa:

 "Ước gì sông hẹp tày gang 
Bắc cầu dải yếm cho chàng sang chơi".

Duyên tình đảy đưa của người con trai và người con gái cũng được ghi lại trong ca dao:

Hỡi cô mặc áo yếm hồng
Đi trong đám hội có chồng hay chưa?...
Cô kia yếm trắng lòa lòa
Lại đây đập đất trồng cà với anh.
Bao giờ cà chín cà xanh
Anh cho một quả để dành mớm con.
Cho đến câu nhớ nhung, mong đợi của kẻ xa quê
Mình về mình có nhớ chăng
Ta về như lạt buộc khăn nhớ mình.
Ta về ta cũng nhớ mình
Nhớ yếm mình mặc, nhớ tình mình trao

Cái yếm là thứ trang phục vừa kín đáo, vừa... “ỡm ờ” một cách nghệ thuật và độc đáo như trong thơ Hồ Xuân Hương:

Lược trúc lỏng cài trên mái tóc,
Yếm đào trễ xuống dưới nương long.
Ðôi gò Bồng đảo sương còn ngậm,
Một lạch Đào nguyên suối chửa thông.


Cuộc cách mạng yếm xảy ra vào thế 20 khi các kiểu áo Tây phương xâm nhập vào Việt Nam với sự ra đời của rất nhiều kiểu yếm và áo ngực mới lạ. Trang phục du nhập vào có tính tiện dụng hơn hẳn nên Yếm không còn được sử dụng rộng rãi nữa, yếm thường chỉ được dùng cùng với các trang phục cổ trong các dịp lễ hội truyền thống.

Ngày nay chiếc yếm đã được cải tiến gọi là áo yếm để dùng cho các em gái mới lớn. Áo yếm dùng mặc trong có hai dây đeo lên vai thay vì trước đây chiếc yếm có hai dây buộc quanh cổ và hai dây bên buộc ngang lưng... nhưng chiếc áo yếm ngày xưa vẫn xứng đáng là một di sản trang phục của Việt Nam.

CHÙM ẢNH ĐẸP VỀ CHIẾC ÁO YẾM













Phụ Chú:

1.Nhà Lý hoặc Lý triều (Hán-Nôm: 家李 • 李朝, nhà Lý • Lý triều), còn được gọi là nhà Hậu Lý (Hán-Nôm: 家後李 • 後李朝, nhà Hậu Lý • Lí Hậu triều) (để phân biệt với nhà Tiền Lý của Lý Nam Đế), là một triều đại phong kiến trong lịch sử Việt Nam. Triều đại này bắt đầu khi Thái Tổ Thần Vũ hoàng đế Lý Công Uẩn lên ngôi vào tháng 10 âm lịch năm 1009, sau khi giành được quyền lực từ tay nhà Tiền Lê. Triều đại này trải qua 9 vị hoàng đế và chấm dứt khi Nữ hoàng đế Lý Chiêu Hoàng, lúc đó mới có 7 tuổi, bị ép thoái vị để nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh vào năm 1225 – tổng cộng là 216 năm.

2.Đàng Ngoài (chữ Hán: 塘外), hay Bắc Hà (chữ Hán: 北河), An Nam (Hán tự: 安南國 / An Nam quốc), Vương quốc Đông Kinh (Tunquin, Tonqueen, Tonquin, Tonkin, Ton Kin...) là tên gọi vùng lãnh thổ Đại Việt kiểm soát bởi Chúa Trịnh, xác định từ sông Gianh (tỉnh Quảng Bình) trở ra Bắc. Kinh đô Đàng Ngoài là Thăng Long (còn gọi là Đông Kinh, Kinh Kỳ hay Kẻ Chợ).https://vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%C3%A0ng_Ngo%C3%A0i

3.Nhà Hậu Lê (Hán-Nôm: 家後黎・後黎朝, nhà Hậu Lê • Hậu Lê triều; 1427-1789) là một triều đại phong kiến Việt Nam, tồn tại sau thời Bắc thuộc lần 4 và đồng thời với nhà Mạc, nhà Tây Sơn trong một thời gian, trước nhà Nguyễn.

Nhà Hậu Lê do Lê Thái Tổ lập ra, được phân biệt với nhà Tiền Lê (980-1009) do Lê Đại Hành lập ra cuối thế kỷ 10. Nhà Hậu Lê gồm có 2 giai đoạn:

Nhà Lê sơ (黎初; 1428-1527): kéo dài 100 năm, bắt đầu từ khi khởi nghĩa Lam Sơn thắng lợi, Lê Lợi gạt bỏ vua bù nhìn Trần Cảo, tự làm vua, lập ra triều đại mới và kết thúc khi quyền thần Mạc Đăng Dung phế bỏ vua Lê Cung Hoàng lập ra nhà Mạc.
Nhà Lê Trung Hưng(黎中興; 1533-1789): kéo dài 256 năm, bắt đầu từ khi Thượng tướng quân Nguyễn Kim lập tông thất Lê Duy Ninh lên ngôi, tức Lê Trang Tông tại Ai Lao để khôi phục nhà Hậu Lê; kết thúc khi Lê Chiêu Thống chạy sang lưu vong tại Trung Quốc dưới thời Thanh Cao Tông.
Cách gọi nhà Hậu Lê bao gồm cả 2 giai đoạn Lê sơ và Lê trung hưng. Đặc biệt, thời Lê Trung Hưng tuy kéo dài nhưng các Hoàng đế nhà Lê mất thực quyền, chỉ tồn tại trên danh nghĩa. Thời kỳ đầu gọi là Nam Bắc triều, nhà Lê và nhà Mạc chia đôi nước Đại Việt. https://vi.wikipedia.org/wiki/Nh%C3%A0_H%E1%BA%ADu_L%C3%AA

Hình ảnh và tài liệu được người viết sưu tầm trên Internet, Cám ơn tác giả các hình ảnh được đính theo bài này.

Võ Thị Linh tổng hợp và hiệu đính 30/12/2015

Thứ Ba, 29 tháng 12, 2015

QUÂN CẢNH VNCH

Là một đơn vị của Quân Lực VNCH, với quân số trên 10.000 người, khởi đầu thành lập từ năm 1948, từ đó lớn dần theo sự phát triển chung đến ngày 1 tháng 10 năm 1960, các đơn vị Quân Cảnh thống nhất thành một đại đơn vị với danh xưng là Quân Cảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhiệm vụ chính là duy trì quân phong, quân kỷ của quân đội. Quân Cảnh hiện diện khắp nơi (tại các Sư Đoàn Bộ Binh, Không Quân, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù…), ngoài ra  còn có những đơn vị Quân Cảnh chuyên về điều tra tư pháp, an ninh trật tự lãnh thổ và  quản lý tù binh cộng sản….

Quân Cảnh Hành Khúc

NGƯỜI QUÂN CẢNH CUỐI CÙNG CHẾT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU-TỰ SÁT DƯỚI CHÂN CỜ 


Theo lời kể của Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp, San Jose. Bài viết được trích từ Tự Do Ngôn Luận:

Câu chuyện vào giờ thứ 25 của ngày 30 tháng 4-1975, có một hạ sĩ quan Quân Cảnh của đại đội 1 tại Tổng Tham Mưu đã tự sát dưới chân cột cờ trước tòa lầu chính. Một Quân Cảnh còn sống đến hôm nay đó là hạ sĩ quan Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp,  trên đường từ Dục Mỹ về Sài Gòn cho đến ngày cuối tại Bộ Tổng Tham Mưu.

Vào khoảng 8 giờ sáng, ngày 29 tháng 3-1975, tôi với một vài người bạn ra chợ Dục Mỹ để uống cà phê và cũng để nghe ngóng tình hình chiến sự. Tin tức từ những quân nhân hướng Khánh Dương chạy về cho biết là tuyến phòng tuyến này do các chiến sĩ Nhảy Dù ngăn chận Cộng quân đã đổ vỡ.
Chúng tôi lập tức trở về TTHL Dục Mỹ thì quang cảnh quân trường đã thay đổi hẳn. Các khóa sinh và cơ hữu của trung tâm ra các giao thông hào trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Biến động này làm cho nhóm 17 khóa sinh gốc Quân Cảnh chúng tôi lại thêm hoang mang. Số là nhóm chúng tôi đã thụ huấn xong khóa cuối Rừng Núi Sình Lầy và có danh sách được trở về binh chủng Quân Cảnh. Khóa học đã mãn hơn 10 ngày rồi mà chưa có Sự Vụ Lệnh để trình diện đơn vị.

Chúng tôi cử một đại diện có cấp bậc cao nhất trong nhóm là thượng sĩ lên trình diện Đại Tá CHT/TTHL Dục Mỹ sau khi đã qua các văn phòng theo hệ thống quân giai. Đại Tá Đại rất bận rộn nhưng ông vẫn cho gặp. Ông ngạc nhiên về trường hợp chậm trễ. Tuy nhiên sau cùng, ông lục ở ngăn kéo nơi làm việc tìm ra được Sự Vụ Lệnh mà ông đã ký rồi và đưa ra trao cho trưởng toán chúng tôi.

Khi nhận được Sự Vụ Lệnh thì Quân Trường Dục Mỹ không thể cung cấp phương tiện đến Nha Trang. Chúng tôi đành tự túc mạnh ai nấy đi. Đến chiều khoảng 1 giờ, chúng tôi gặp nhau tại ở Nha Trang với hy vọng tìm được máy bay về Sài Gòn. Tôi và vài bạn nữa đi ngang qua Bộ Tư Lệnh QĐ II thì lá cờ tướng đã hạ xuống, Quân Cảnh gác cổng không còn. Đi qua Bộ Chỉ Huy BĐQ QK II thì cũng vườn hoang nhà trống. Súng M16 cả đống nên mỗi anh em nhặt một cây để phòng thân.

Không có phương tiện của quân đội nên chúng tôi mạnh ai nấy đi bằng cách đổ ra ngã Ba Thành và leo xe nhà binh tìm đường xuôi Nam. Lúc bấy giờ có Quân Cảnh Hiệp, người lớn tuổi hơn tôi nên bạn bè gọi là Hiệp Già. Anh có một vợ 5 con, đơn vị gốc là Tiểu đoàn 8 Quân Cảnh, cùng học chung với tôi mấy khóa ở Trường Quân Cảnh và Trường HSQ Đồng Đế.
Suốt đêm hôm đó và đến khoảng 3 giờ chiều hôm sau, đoàn xe di tản đến thị xã Phan Thiết. Khi xe ra khỏi Phan Thiết một đỗi chúng tôi gặp một số quân nhân chạy ngược lại, được biết Việt cộng phục kích và có giao tranh ở ngã ba Bình Tuy (Rừng Lá).

Tin này làm chúng tôi chùn chân vì tôi biết chắc với đám quân không có chỉ huy nếu gặp Việt Cộng thì chỉ có chết. Sở dĩ tôi nghĩ như thế là vì suốt từ nhiều ngày qua đã có lúc giành mấy củ khoai ở cổng Ba Làng Cam Ranh mà bắn nhau chết. Thị xã Phan Thiết đang yên lành thì bị cướp, bị phá cửa sắt lấy bia, nước đá, thực phẩm tạo ra sự giành giựt rồi giết nhau. Điều này ai có đi khoảng thời gian đó đều biết. Với máu Quân Cảnh trong người, tôi rất bất mãn nhưng không thể làm gì được.

Sau cùng, tôi bàn với anh Hiệp già là nên trở lại Phan Thiết tìm ghe hoặc tàu bè về Vũng Tàu chắc ăn hơn. Anh Hiệp không đồng ý nên chúng tôi chia tay.

Sau cùng tôi cũng tìm đường thủy về Sài Gòn qua ngã Vũng Tàu. Trình diện ở trại đường Tô Hiến Thành xong, được lệnh trả tôi về binh chủng. Tôi bắt thăm trúng được Tiểu Đoàn 5 Quân Cảnh. Nỗi vui mừng thật lớn, coi như thoát được nạn trong mấy ngày vừa qua. Hơn sáu năm đi lính, lần đầu tiên bắt thăm được trúng đơn vị ở gần nhà. Biết bao là mừng vui. Tại Ban Nhân Viên Tiểu Đoàn tôi được lệnh tăng phái cho Đại Đội 1 Quân Cảnh tại Bộ TTM. Thật tình mà nói, tôi chỉ được nghe tên vị Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu tá Hưng hay Trung Tá Hưng (không rõ), còn các Đại Đội Trưởng và Trung Đội Trưởng của tôi tôi chưa kịp gặp mặt, hoàn toàn không biết là ai. Cứ nhận lệnh đi tăng phái đã.

Tôi không nhớ chính xác bao nhiêu quân nhân từ Tiểu Đoàn 5 Quân Cảnh tới tăng cường cho Đại Đội 1 Quân Cảnh, hình như khoảng 15 anh em gì đó. Nhiệm vụ chúng tôi đứng các nút chặn ngã ba Chú Ía, ngã tư Võ Di Nguy Võ Tánh, Võ Tánh gần Bệnh Viện III Dã Chiến Hoa Kỳ, và Võ Tánh gần ngã ba Trương Quốc Dung.

Có một ngày, vào khoảng 15 tháng 4-1975, tôi gặp lại một bạn Quân Cảnh cùng chạy ở Dục Mỹ hỏi thăm anh Hiệp Già và được biết anh bị một viên đạn bắn sẻ của Việt Cộng trúng ngay giữa tam tinh gần ngã ba Rừng Lá. Tôi bần thần về tin này cả tuần.

Trong thời gian tăng phái cho TTM, ngày đứng đường, đêm về các điểm phòng thủ trong Tổng Tham Mưu. Có một đêm tôi nằm dưới thềm Tổng Cục Tiếp Vận coi TV thấy Tổng thống Thiệu đọc diễn văn chửi Mỹ. Mắt coi TV, tai nghe đạn pháo kích lòng dạ sao xuyến tan nát. Cường độ pháo của cộng quân càng tăng. Trước 3 trái thì 2 trái vô Tân Sơn Nhất còn trái vô TTM. Sau 2 trái thì 1 trái vô Tân Sơn Nhất và 1 trái vô TTM. Nghe quen, tôi cũng bắt chước số anh em khác mà đoán tầm gần xa, lúc nào sắp nổ. Tôi vẫn ở TTM nhưng phạm vi hoạt động rút lại gần hơn và chịu pháo nhiều hơn.

Trong thời gian này, bên gia đình vợ tôi có đường chạy ra ngoại quốc. Nếu muốn đi thì chắc chắn chúng tôi sẽ ra đi bình yên. Tôi là hạ sĩ quan với sắc phục Quân Cảnh. Đi đâu cũng gặp toàn bạn bè cùng binh chủng. Không những đi dễ dàng mà còn lo cho được cả gia đình họ hàng. Nhưng không biết tại sao vào những giây phút đó tôi lại thấy mình yêu nước. Bỏ đi không đành. Đó là tấm lòng thành thực, nghĩ sao thì nói vậy. Sau này vợ tôi cứ nói mãi về vụ di tản. Bây giờ bả không còn nữa nhưng tôi vẫn còn nghe như tiếng nói than thở bên tai.
Sáng ngày 30 tháng 4-1975:

Tôi được lệnh tăng cường cho cổng 1 TTM. Lúc bấy giờ cộng quân gia tăng cường độ pháo kích dữ dội. Các Quân Cảnh cơ hữu của Đại Đội 1 Quân Cảnh rất bận rộn. Có tin cổng 4 có một số sĩ quan TTM phá rào chui ra đến nỗi Quân Cảnh Đại Đội 1 TTM phải dùng hàng rào người mà cản lại. Cũng có một số sĩ quan cấp Trung và Đại Tá tự ký Sự Vụ Lệnh ra cổng. Chưa đến nỗi hỗn loạn nhưng Quân Cảnh khá mệt nhọc vất vả mới giữa được trật tự.

Lệnh Tướng Hạnh là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Chúng tôi thì chỉ có nhiệm vụ yểm trợ cho Đại Đội 1 Quân Cảnh mà thôi. Tôi quan sát tại điếm canh cổng số 1 có anh Quân Cảnh làm việc thật tích cực và hiệu quả. Nhìn kỹ ra là anh Minh người cao lớn. Tôi thật tình quên mất họ của Minh là Trần hay Nguyễn. Nhưng có thể là Trần Văn Minh (?). Minh cùng chung một khóa với tôi ở Trường HSQ Đồng Đế. Đó là khóa 1/71 Đặc Biệt HSQ hiện dịch, lúc đó tướng Linh Quang Viên làm Chỉ Huy Trưởng. Sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại Trường Quân Cảnh một hai lần nữa. Giờ đây, rõ ràng là Minh đang ở Đại Đội 1 Quân Cảnh TM. Giơ tay chào nhau, nói vài câu, rồi ai làm việc nấy. Lúc đó tôi ở cổng chánh khoảng 100 mét về hướng tòa nhà chánh.

11 giờ 30 ngày 30 tháng 4-1975:

Lúc 11 giờ 30, từ cổng 1 TTM tôi nghe súng nổ dữ dội ở phía Bệnh Viện Dã Chiến Hoa Kỳ, thì ra các anh em LĐ 81 BCND đang bắn xe tăng Việt cộng. Khi chiếc xe T54 của Việt cộng có treo cờ GPMN hướng về cổng 1 TTM thì tất cả chúng tôi lái xe Jeep rút về văn phòng Đại Đội 1 Quân Cảnh vì xe cộ đồ đạc tất cả đều để đây. Khi xe ngừng, Minh bước xuống và nước mắt đã đầm đìa. Tôi nhìn Minh mà lo cho thân mình nên vội vàng cột ba lô mang súng ống, rồ xe Mobylette phóng chạy. Cái cảnh lúc đó thật là hoảng loạn, mạnh ai nấy lo, giành đường thoát ra.

11 giờ 40 ngày 30 tháng 4-1975:

Sau lưng tôi, Minh khóc và nói một mình “Thôi rồi, mất nước rồi.” Nói xong anh Minh bước tới gần cột cờ, nghiêm chỉnh đưa tay lên, chào xong móc khẩu Colt 45 bên hông kê lên màng tang. Một tiếng nổ đơn độc vang lên. Tôi chắc tiếng nổ đó đã hòa tan trong tiếng máy của hàng trăm chiếc xe Honda, Vespa, Suzuki. Minh ngã xuống. Trung sĩ I Trần Văn Minh đã trả xong nợ nước vào giờ thứ hai mươi lăm. Tôi là một người sợ chết nên nhìn Minh một lần chót, nén xúc động và chạy thoát thân với hàng đoàn người kia.

Giờ đây Minh họ Nguyễn hay Trần tôi không biết chắc. Anh đã chết thật hay chỉ bị thương cũng không biết chắc. Có điều Minh đã làm một việc thật là đáng để tôi quỳ xuống mà lạy anh. Tất cả các đoạn trên tôi viết dông dài chỉ nhằm mục đích kể lại đoạn cuối về cái chết của một Quân Cảnh tại Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi là binh chủng lo về quân kỷ của quân đội. Xin các anh em chiến hữu hiểu rằng chúng tôi cũng sống chết với quân đội như anh em. Và trong hàng ngũ hạ sĩ quan chúng tôi cũng có người tự vẫn dưới ngọn cờ Tổng Tham Mưu vào giờ thứ 25.
Gần 30 năm qua, ngồi cố nhớ mà viết lại chắc có nhiều chi tiết thiếu sót, ước mong các chiến hữu bổ khuyết dùm cho.

(Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp, San Jose)









NHỮNG QUÂN CẢNH TỰ SÁT TRONG NGÀY 30.4.1975

Gồm có 7 chiến hữu Quân Cảnh đã tự sát trong ngày 30 tháng 4 năm 1975, gồm có Đại Úy Nguyễn Hòa Đường; Trung Úy Trần Văn Kính tại trường Quân Cảnh Vũng Tàu đã tự sát ngay tại cột cờ của trường Quân Cảnh trong khi cộng sản tiến vào chiếm trường ngày 30 tháng 4 năm 1975; Thượng Sĩ Trần Chánh Tạo tự sát trước cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu khi Việt Cộng tiến vào Bộ Tổng Tham Mưu; Thượng Sĩ Huỳnh Văn Lẹ tự sát ngày 30 tháng 4 năm 75 tại Tiểu Đội Quân Cảnh Ban Mê Thuột; Trung Sĩ Nhất Nguyễn Văn Đông thuộc Tiểu Đoàn 6 Quân Cảnh tự sát tại phòng hành quân Biệt Khu Thủ Đô khi Việt Cộng tiến vào văn phòng; Trung Sĩ Nhất Hòa thuộc Tiểu Đoàn 3 Quân Cảnh tự sát bằng lưu đạn tại đồn Quân Cảnh Bình Dương; Trung Sĩ Nhất Trần Văn Minh thuộc Đại Đội I Quân Cảnh tự sát khi đang thi hành công tác trước cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu.http://viendongdaily.com/quan-canh-khong-la-kieng-LK8HQ5JR.html


CON CHIM RỜI ĐÀN

Cựu Thiếu Tá Trương Văn Cao

Sinh Ngày  13 Tháng 9, Năm 1941;Tại Làng Tường Lộc, Quận Tâm Bình, Vĩnh Long.

Tiểu Sử:

11/1963, tốt nghiệp K18 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, chọn Binh chủng Quân Cảnh. Đơn vị đầu đời: Ban Quân Cảnh Quân Đoàn II, Pleiku.

Tốt nghiệp Khóa Căn Bản Quân Cảnh tại Trường Quân Cảnh Vũng Tàu.

1965, tốt nghiệp Khóa Criminal Investigation Course, Hoa Kỳ. Về nước, Trung úy Đại Đội trưởng Đại Đội A2 QC kiêm Trưởng đồn QC Pleiku.

1966, Chỉ Huy Trưởng Trại giam Tù binh Cộng sản Việt Nam, Pleiku.

1968, Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng TĐ11QC kiêm Trưởng Đồn QC Nha Trang.

1971, Dự trù theo học Trường Quân Cảnh Cao Cấp tại Hoa Kỳ, vì nhu cầu công vụ, thuyên chuyển ra Phú Quốc, giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 9 Quân Cảnh.

1972, Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Trại giam Tù binh Cộng sản, Pleiku.

1973, Sau Hiệp Định Paris, Đại diện QC trao trả tù binh tại Thạch Hãn, Bồng Sơn, Thiện Ngôn.

Khi Tân Cảnh thất thủ, Cơ sở Trại Giam Pleiku được tạm dùng để cho đồng bào di tản từ Tân Cảnh về tạm trú. Nhân viên trại giam và tù binh tạm thời di chuyển về Trại Phú Tài, Qui Nhơn. Khi đồng bào Thượng đã có chỗ ở ổn định, Ban chỉ huy và tù binh cộng sản về lại Trại giam Pleiku.

Ngày 17 tháng 3 năm 1975, theo QĐII di tản về Nha Trang theo Tỉnh lộ 7B.

Ngày 29 tháng 3/1975, được bổ nhiệm Quân Trấn Trưởng Nha Trang (vì đã rời Binh chủng QC, nên trực thuộc quân số QĐII).

30/3/75, QĐII di tản về Phan Rang sau đó về Sai Gòn, Thiếu Tá Cao trở về Binh chủng QC, đảm nhận trách vụ Sĩ quan An ninh của Tiểu Đoàn 6 QC Biệt Khu Thủ Đô,

29/04/75, Thiếu Tướng Lâm Văn Phát, tân Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô chỉ định Thiếu tá Cao vào chức vụ Chỉ Huy Trưởng QC Đặc Khu SàiGòn ChợLớn vào giờ thứ 25, vì sau đó ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

30/04/1975, đến Hồng Kông bằng tàu Trường Xuân. Đến El Paso, Mỹ tháng 11/1975 và đến Houston tháng 06/1976 cho đến nay.

Điểm đáng ghi nhận:

QC Trương Văn Cao đã nhiều lần phục vụ tại Pleiku từ Thiếu Úy cho đến Thiếu Tá, từ năm 1963 cho đến ngày QĐII di tản về duyên hải tháng 3/1975.
Vì gắn bó với Pleiku như vậy, cho nên QC Trương Văn Cao trở thành người dân bản xứ và mang thêm một họ thông dụng của người bản xứ, là họ Y. Thiếu tá QC Trương Văn Cao có tên người dân tộc thiểu số là Y Cao.

Chắc quý đồng hương còn nhớ vị Tỉnh Trưởng Pleiku người dân tộc thiểu số vào thập niên 60, ông tên là Y YaBa.  Ông Tỉnh trưởng Y YaBa có tên Việt Nam là Trương Sơn Bá. Từ ngày lưu lạc, Y Cao vẫn giữ lập trường quốc gia dân tộc bằng cách thường xuyên sinh hoạt trong Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại địa phương và trong các Hội Đoàn Quân Đội.

Nguyên là Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Quân Cảnh QLVNCH tại Hải Ngoại.
Hội Trưởng Hội Quân Cảnh VNCH tại Houston Texas.  Y Cao cũng là Cố Vấn của Hội Ái Hữu Phố Núi Pleiku. Đại Sứ và Cố Vấn công trình xây dựng tượng đài tổ Quốc ghi ơn thuộc Hệ Thống Chùa Tầm Nguyên - Làng A Di Đà, Conroe Texas.
Sau một thời gian bạo bệnh Thiếu Tá Trương Văn Cao, aka Y Cao đã từ trần vào lúc 7:41 phút tối thứ Tư ngày 16 tháng 9, 2015 tại bệnh viện Hermann Memorial South West, hưởng thọ 77 tuổi.  Ông đã  đóng góp hết 40 năm của cuộc đời còn lại, sau ngày gãy súng 30/4/1975 vào công cuộc bảo vệ chính nghĩa tại hải ngoại.”



Một số hình ảnh về sự thật của trại tù Phú quốc quý vị có thể vào trang web của Tổng Hội Quân Cảnh QL.VNCH để xem tiếp:  http://www.tonghoiquancanh.net/hinh-anh-trai-tu-phu-quoc-1973/

Trịnh Khánh Tuấn-tổng hợp 29/12/2015