Thứ Tư, 31 tháng 3, 2021

VĂN HÓA "NỊNH" NỞ HOA TRONG LÒNG ĐẢNG CỘNG SẢN


So với ngày xưa, văn hóa NỊNH ngày nay nở rộ trong đảng từ thượng tầng xuống tới hạ tầng, văn hóa "nịnh" thời nay còn có cái tên khác là "bưng bô" một thứ ngôn ngữ thường dùng trong nước.. Văn hóa NỊNH thời nay phải dùng hết nước biển đông để làm mực mới viết ra hết được thói "nịnh"và bưng bô ngày nay nơi thiên đường xã hội chủ nghĩa.

Văn hóa nịnh rất da dạng và phong phú phát triển nhiều nhất trong nội bộ đảng csVN với nhiều hình thức như: bơm thổi, đua nịnh, luồn cúi, nâng bi, bê đỡ, bưng bô, điếm bút, bồi bút, đĩ bút, ôm chân, liếm gót, nịnh trên nạt dưới...

Quan chức ngày nay phần lớn đều bất tài, xài bằng giả, mua quan tiến chức để lập thân và bước trên con đường quan lộ, đám tiểu nhân này đi lên được nhờ vào hai đầu gối, mẫu số chung của đám quan bất tài này: kiêu căng, tự phụ, ngạo mạn, ích kỷ, thiển cận, thích phỉnh nịnh, đương nhiên đều dễ bị sa vào những cái bẫy lưỡi, lời nói đường mật, tâng bốc của cấp dưới. 

Thường văn hóa nịnh được bọn tiểu nhân ưa chuộng sử dụng trong mọi thời điểm đi lên của bọn tiểu nhân, nó hiện diện trong đũ mọi giai cấp, từ Trung Ương Đảng, xuống tới cấp dưới, từ trong hàng ngũ trí thức cho tới giới công nhân viên chức bình thường...Xu nịnh là một chứng bệnh lây lan mạnh trong thời đại Nguyễn Phú Trọng là những biểu hiện của thói xấu, ti tiện, tầm thường nhưng để đạt được mục đích , những "CON NỊNH" không chừa một thủ đoạn nào, kể cả tội ác.

NHỮNG DANH NHÂN VĂN HÓA "NỊNH" - ĐĨ BÚT - THƠ NÔ TỐ HỮU

Nhân vật thuộc loại văn hóa nịnh cao cấp là Ủy Viên Trung Ương thời đại HCM là tên đĩ bút, thơ nô Tố Hữu, đại diện cho loại văn hóa bưng bô thời cận đại.  Bên cạnh Tố Hữu còn có những tên đĩ bút khác đó Xuân Diệu, Vũ Đình Liên, Chế Lan Viên...được coi là  là những nhà văn hóa "Nịnh" nổi tiếng nơi thiên đường XHCN.

Thợ nịnh, trên đời này, khó có ai qua mặt Tố Hữu. Trong thơ Tố Hữu, trên thân thể “bác Hồ” từ sợi tóc trên đầu cho đến ruột gan, đôi dép râu đi dưới chân “bác” đều là những thứ thơm tho, siêu phàm.

Tóc:

“Bác về tóc có bạc thêm

Năm canh, bốn biển có đêm  nghĩ nhiều.”

Mắt:

“Đôi mắt Bác hiện lên cười phấn khởi

Ta lớn cao lên bay bỗng diệu kỳ.”

“Nhớ ông cụ mắt sáng ngời

 Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường.”

Tay và Trán:

“Trông đàn con đó vẫy hai tay

Cao cao vừng trán ngời đôi mắt.”

“Trán mênh mông thanh thản nụ cười…”

Bàn tay:

“Bàn tay con nắm tay Cha

 Bàn tay Bác ấm vào da vào lòng.”

Máy đánh chữ – Chiếc gậy:

“Máy chữ thôi reo nhớ ngón đàn

Thong dong chiếc gậy gác bên bàn.”

Đôi dép râu:

“Còn đôi dép cũ mòn quai gót

Bác vẫn thường đi giữa thế gian!”

....

THƠ NÔ XUÂN DIỆU

“Lời Cha rất mực dịu hiền,

Như là thấm nhẹ, mà xuyên vào lòng

…..

Mắt Cha nghìn thuở sáng tươi

Dìu cho con vượt qua đời tối tăm”.

(Thơ dâng Bác Hồ)

Hay:

Trên đầu tóc Bác sương ghi,

Chắc đôi sợi đã bạc vì chúng con.

Nghĩ thêm hối hận bồn chồn”.

 (Thơ dâng Bác Hồ?

THI NÔ VŨ ĐÌNH LIÊN

Bài thơ “Thủy Chung” sáng tác năm 1977, Tết Đinh Tỵ nặc mùi nịnh đảng 

Năm nay đào nỡ rộ,

Mừng hội Đảng, Hội Dân,

Bút ông đồ lại họa

Những nét chữ đẹp, thân.

Cờ biển ngập phố phường,

Cành đào bay thắm đỏ,

Như cả ngàn hoa xuân,

Nét hoa trên mỗi chữ.

Thấy trong lòng say sưa,

Dừng chân không muốn bước,

Nghe đọc những vần thơ

Ngợi khen những nét bút.

Xuân Cộng Hòa Xã Hội

Mai đào tươi thắm hoa

Một nguồn hạnh phúc mới

Trào ngọn bút dòng thơ...!

CÁI NỊNH THỜI NGUYỄN PHÚ TRỌNG

Một nhân vật nịnh thuộc hàng cao cấp nhất trong chế độ hiện tại chính là lão già đầu bạc, Nguyễn Phú Trọng, đây là nhân vật mà tên đại biểu QH đơn vị Hà Nội Nguyễn Anh Trí đã từng phát biểu nịnh hót trong buổi họp Quốc Hội sáng ngày 29/3/2021: “Cảm động vô cùng với một vị Tổng bí thư, Chủ tịch nước có “mái đầu bạc trắng hiên ngang”, với “gánh sơn hà nặng trĩu hai vai”, là trung tâm đoàn kết, là ngọn cờ tập hợp, là người khơi nguồn tự hào dân tộc (?!).

Còn TBT kiêm CT Nước Nguyễn Phú Trọng có văn hóa nịnh ra sao? : "Trà VN không ngon bằng trà TQ " được thái thú Nguyễn Phú Trọng tâm tình với Tập Cận Bình trong buổi khoản đãi ngày 13/11/20017 tại Bắc Kinh. Trong thời đại Nguyễn Phú Trọng văn hóa "nịnh" được xem như đã át hẳn văn hóa Marx Lenin. 


TẠI SAO NGUYỄN ANH TRÍ,  PHẢI NỊNH??

Trở lại với ông Đại Biểu nịnh TS.Nguyễn Anh Trí, là một hiền tài, một trí thức của đảng csVN, Viện trưởng Viện Huyết Học Truyền máu trung Ương, đảng viên đảng csVN từ ngày 10.10.1996, người được Ban Tuyên Láo đảng csvn bla..bla.. là ĐB ứng cử tự do duy nhất của đơn vị Hà Nôi năm 2016, và sau đó được trúng cử nhiệm kỳ 2016-2021. 

Vợ là bà Võ Thị Ngọc Lan, cháu ruột của đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Bà Võ Thị Ngọc Lan là người Huế, hiện là Chủ tịch Hội đồng quản trị tập đoàn MEDGROUP. Con Nguyễn Trí Anh là Tổng giám đốc Tập đoàn MEDGROUP và là người đứng mũi chịu sào trước pháp luật cho tập đoàn, còn ĐB Nguyễn Anh Trí là Chủ tịch Hội Đồng Cố Vấn cho tập đoàn này.


Gia đình có 3 người đều là những lãnh đạo cao cấp của Tập Đoàn MEDGROUP. với định hướng phát triển thành tập đoàn hoạt động đa ngành, bên cạnh mũi nhọn y tế, MED GROUP hiện các đơn vị thành viên gồm:

Năm 2008, Trung tâm Nghiên cứu, Bảo tồn di sản tiến sĩ Việt Nam, nay là Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam (viết tắt MEDDOM) được thành lập, hiện có trụ sở tại 561 đường Lạc Long Quân, phường Xuân La, quận Tây Hồ, Hà Nội. 

Đồng thời, thành lập Công viên Di sản các nhà khoa học Việt Nam (MEDDOM PARK), có địa chỉ tại Xóm Tiềng, xã Bắc Phong, huyện Cao Phong, tỉnh Hòa Bình.

Năm 2014, thành lập Công ty TNHH Dịch vụ và Tổng hợp MEDAZ Việt Nam.

Năm 2017, thành lập Công ty TNHH Xây dựng MEDICONS.

Năm 2018, Công ty TNHH Dược phẩm MEDAZ PHARMA thành lập.

Năm 209, Công ty Cổ phần Công nghệ và Dịch vụ MEDCOM.

Năm 2020, Công ty Cổ phần Công nghệ và Dịch vụ y tế số (MED-ON).

Nguồn: https://medlatec.vn/tin-tuc/thong-tin-gioi-thieu-cong-ty-co-phan-med-group-s5-n11033

Trung tâm Di sản các nhà khoa học Việt Nam (MEDDOM) trực thuộc MEDGROUP có chức năng: Nghiên cứu, bảo tồn và lưu giữ những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể thông qua ký ức, tư liệu và hiện vật cá nhân của các nhà khoa học Việt Nam

Công viên Di sản các nhà khoa học (MEDDOM PARK) được định hướng phát triển đa năng kết hợp hoạt động văn hóa và du lịch sinh thái với trưng bày giới thiệu sự phát triển của nền khoa học Việt Nam thông qua cuộc đời hoạt động khoa học của các nhà khoa học, đồng thời tôn vinh các nhà khoa học đã có những đóng góp xứng đáng cho khoa học và cho đất nước.

Sau hơn 10 năm xây dựng và phát triển, MEDDOM đã gặt hái nhiều thành công. Trong những năm qua Trung tâm sưu tầm được hơn 800.000 tài liệu hiện vật, mở rộng tiếp cận với hơn 1.700 nhà khoa học, và đã mở rộng địa bàn hoạt động ở thành phố Hồ Chí Minh, Huế, Hải Phòng, Thái Nguyên... Công viên Di sản đã trở thành địa chỉ hấp dẫn với du khách.

Với cơ ngơi của gia đình Nguyễn Anh Trí thật là đồ sộ - cơ sở của gia đình ĐB-NAT phải được tiếp tục phát triển lớn hơn nửa , thế nên nó không thể bị dừng lại hay phá sản thình lình, do đó GS.TS Đại Biểu QH Nguyễn Anh Trí, một trí thức Hà Thành phải uốn mình, uốn lưởi, cuối xuống le lưởi liếm giày thối của  Nguyễn Phú Trọng một cách vô liêm sỉ như thế!! không xứng với học vị GS.TS Viện Trưởng một viện y học Trung Ương. Nhìn vào cơ ngơi 25 gây dựng của vợ chồng GS.TS, để thây chân dung của đảng viên cs, đại biểu đơn vị Hà Nội Nguyễn Anh Trí là một tham quan.

Ở nước ta, trong thời vua Trần Dụ Tông, vì vua bất tài, bạc nhược, thích ăn chơi xa hoa lại được  bọn nịnh thần ngày đêm hầu hạ nên chính sự rối ren, dân chúng đói khổ.  Đứng trước cảnh  triều chính thối nát, đất nước lâm nguy, Chu Văn An đã dũng cảm dâng “ Thất trảm sớ” gây chấn động lên vua để chém đầu 7 kẻ nịnh thần đều được vua yêu và trọng  dụng nhưng tiếc thay Trần Dụ Tông đã không nghe theo. Chu Văn An biết không thể hạ mình chung sống với ông vua nhu nhược và đám quần thần hủ bại nên ông  đã từ bỏ chốn cung đình về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, Chí Linh, Hải Dương ngày nay. 

Nịnh bợ mà được sống đời
Là nhờ nương tựa vào người chịu nghe

(Ca dao)

Nịnh bợ là một hành vi xấu xa, thường thì kẻ không có liêm sỉ mới đi nịnh bợ để được cất nhắc, tin dùng, mưu lợi cá nhân .Trong văn hóa nịnh không loại trù bất cứ một giai cấp nào, vì thế, càng có học vị cao thì văn hóa NỊNH càng ngất ngưởng, Nguyễn Anh Trí là một điều bất hạnh, làm xấu hổ cả một hàng ngũ trí thức Hà Thành. Lối nịnh của một trí thức già 64 tuổi đũ thấy thâm niên về căn bệnh "Nịnh" đã đeo đuổi suốt cuộc đời của một trí thức hèn mạt này. Thật là hết thuốc chửa!! 

Tập đoàn MEDGROUP của con ông Nguyễn Anh Trí cần phải có kẻ chống lưng vì liên quan đến việc buôn bán nội tạng cũng như kinh doanh huyết tương, nói nôm na là làm giàu bằng máu của người dân, qua hình thức quyên góp, hiến tặng máu, sau đó MEDGROUP mới trích xuất máu lấy huyết tương để xuất cảng các nước Âu châu. Một ngành nghề mà gần như chỉ có Tập Đoàn của gia đình Nguyễn Anh Thi độc quyền xuất cảng. Tội lỗi của gia đình tên ác bá ĐBQH này cao như núi!! Thế nên không ai ngạc nhiên gì với chuyện hắn nịnh con vượn đầu trắng Nguyễn phú Trọng./.

Bình luận thời sự chính tri từ Hậu Duệ VNCH Võ Thị Linh 31.03.2021

Thứ Hai, 29 tháng 3, 2021

 CỘNG SẢN VN ĐÃ MUA CÁC VŨ KHÍ QUÂN SỰ  TỪ ISRAEL

Trong khi nhiều nước phương Tây dè chừng về việc cung cấp vũ khí cho Việt Nam vì “lằn ranh đỏ” do Mỹ dựng lên, Israel đã biết lựa chọn những vũ khí có mức độ liên quan vừa phải đến những công nghệ nguồn của Mỹ để bán lại cho csvn.

Hiện nay Israel là nước bán vũ khí lớn thứ hai cho Việt Nam, chỉ sau Nga, vào năm 2019, theo Viện Nghiên cứu Hòa bình Quốc tế Stockhoml (SIPRI). Ngoài hợp tác quân sự, Israel còn là một trong những nước hiếm hoi bán công nghệ sản xuất vũ khí tối tân cho Việt Nam, như dây chuyền sản xuất súng bộ binh Galil ACE 31/32 tại Nhà máy Z-111 thuộc Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng.



Binh chủng Hải quân lính thủy đánh bộ (tiếng vc) của Hải quân Nhân dân Việt Nam sử dụng phần lớn các vũ khí Israel . Hợp đồng thiết bị quân sự Việt Nam - Israel tập trung chủ yếu dưới ba hình thức : 

Thứ nhất: VN mua các vũ khí quốc phòng thủ như: đã đặt mua 5 Hệ thống hỏa tiễn phòng không SPYDER ; tổ hợp radar  ELM-2288ER và ELM-2022 ; một số loại súng của hãng Israel Military Industries (IMI), súng tấn công Tavor, súng chống tăng Matador, hệ thống pháo phản lực bắn loạt tối tân như Extra, Accular.



Thứ hai: VN mua một số các trang bị tối tân của Israel tân trang cho các máy bay trinh Israel thỏa thuận bán cho Việt Nam 3 máy bay không người lái loại  tấn công, tức máy bay có khả năng mang võ khí cho nhiều nhiệm vụ khác nhau, trị giá $160 triệu, theo báo Globe online. Tính ra mỗi chiếc lên tới $53 triệu, tương đương với giá một chiếc khu trục đa năng Sukhoi SU-30MK2 Việt Nam mua của Nga. Nó có thể bay cao hơn 14,000 mét trong tầm hoạt động tới hơn 7,000km và ở trên không liên tục suốt 30 giờ.

Thứ ba: Chuyển giao từ A-Z dây chuyền sản xuất súng bộ binh tối tân như Galil ACE 31/32 tại Nhà máy Z111 thuộc Tổng Cục Công Nghiệp Quốc Phòng. Chính dây chuyền này đã giúp Việt Nam tự sản xuất nhiều dòng súng “Made in Vietnam” thích ứng với nhu cầu của Việt Nam : sản xuất súng tiểu liên AK, súng máy PKMS, súng bắn tỉa hạng nặng 12,7mm. Ngoài ra, Việt Nam tự cho ra đời hai mẫu súng trường tấn công thực sự “Made in Vietnam” đầu tiên, mang tên GK1 và GK3, dựa trên sự kết hợp những ưu điểm của hai dòng súng Galil ACE và AK ; chuyển giao công nghệ nâng cấp xe tăng T-54/55 và một số loại xe thiếp giáp...

Theo báo chí gia nô trong nước loan tin, đây chính sự “đi tắt đón đầu” để làm chủ công nghệ thiết bị quốc phòng vì không phải quốc gia nào cũng sẵn sàng chia sẻ cho các đối tác chiến lược như Israel. Trong khi nhiều nước phương Tây dè chừng về việc cung cấp vũ khí cho Việt Nam vì “lằn ranh đỏ” do Mỹ dựng lên. Tuy vậy Israel cũng biết lựa chọn những vũ khí có mức độ vừa phải để cung cấp cho VN.

Theo nhận điịnh của nhà nghiên cứu Benoît de Tréglodé, chuyên gia về Việt Nam, giám đốc khu vực châu Phi - châu Á - Trung Đông, Viện Nghiên cứu Chiến lược của Trường Quân sự Pháp (IRSEM).

Tính từ khi Washington dỡ bỏ lệnh cấm vận bán vũ khí cho Hà Nội vào năm 2016. Vào thời điểm đó, một mối quan hệ tay ba được hình thành giữa các nhà cung cấp vũ khí lớn của Israel, mối quan hệ của những công ty này với các tập đoàn Mỹ và khả năng xuất khẩu cho Việt Nam những trang thiết bị nhạy cảm.

Một vấn đề quan trọng khác cho việc phòng thủ của VN là xu huớng công nghệ điện tử trang bị trong các vũ khí vũ khí quốc phòng. Hiện tại, Quân đội  Việt Nam đã thỏa thuận được với Israel  ba loại trang bị cho quân đội VN về các lĩnh vực như: an ninh mạng, máy bay không người lái và các công nghệ  do thám và không ảnh. Đây là 3 lãnh vực mà VN đang cần trong việc phòng thủ trước sự gia tăng cường độ áp lực quân sự của Tàu cộng trên biển đông cũng như áp lức bất chợt đánh úp vn.

Trong thời điểm hiện tại ngành công nghiệp quốc phòng Nga bị cấm vận trên thế giới từ vài năm nay nên phần nào đó hạn chế mối quan hệ truyền thống vững mạnh giữa Nga và Việt Nam về mặt trao đổi vũ khí. Nói rõ hơn là Việt Nam hiện không còn mua của Nga những trang thiết bị thực sự đáp ứng được nhu cầu của họ. 

Một điểm khác, cũng rất quan trọng, đó là việc Hà Nội dè chừng việc các tập đoàn công nghiệp quốc phòng Nga đã xích lại gần Trung Quốc rất khắn khít từ nhiều năm qua.


Được biết sau khi sản xuất được loại súng Galil ACE 31, năm 2019 cộng sản VN đã bắt đầu bán lại cho Lào. Những năm qua Israel cũng đã giúp Việt Nam tân trang cải tiến một số xe tăng T-55. 

CÁC KHÍ TÀI KHÁC ĐANG CÓ MẶT TRONG QĐND

Ngoai các vũ khí của Israel, trong vài năm gần đây cộng sản VN cũng mua  64 chiếc loại T-90S/SK, để phục vụ trong biên chế Lữ đoàn xe tăng 201. Được biết, xe tăng T-90S và T-90SK mới được phía Nga bàn giao cho Binh chủng Tăng – Thiết giáp từ cuối năm 2018.

Trước khi mua khí tài của Israel, Việt Nam trong hai thập niên vừa qua đã đã tích cực, trong việc chủ động mua dây chuyền chuyển giao công nghệ và tự mua thiết kế để đóng được những tàu quân sự được cho là tối tân.

Theo nhận định của Chuyên gia quân sự Andrei Bykov, chủ trang chuyên phân tích quân sự chính trị Kính Tiềm Vọng 2 (Periscope 2) của Nga mới đây có một bài viết nói về những chiến lược hợp tác đóng tàu quân sự linh hoạt, mạnh mẽ và những kinh nghiệm, thành tựu của ngành công nghiệp đóng tàu quân sự Việt Nam trong thời gian gần đây.

Chiếc tàu trang bị hỏa tiễn duy nhất BPS-500 thuộc dự án KBO 2000 được Việt Nam - đóng dưới sự hổ trợ của Nga 

KBO 2000 là một dự án hợp tác đóng tàu quân sự giữa Nga và Việt Nam, trong đó đại diện phía Nga là Cục thiết kế phương Bắc (SPKB). Trong dự án này, SPKB đã tham gia thiết kế ra đề án tàu hộ tống tên lửa BPS-500 theo yêu cầu của Hải quân nhân dân Việt Nam.

Chiếc tàu hỏa tiễn BPS-500 đầu tiên được đóng tại nhà máy đóng tàu ở thành phố Hồ Chí Minh (xưởng Ba Son cũ của VNCH) với sự hỗ trợ kỹ thuật và cung cấp trang thiết bị, linh kiện phụ tùng từ Nga. Tàu trang bị hỏa tiễn  BPS-500 có chiều dài 62,2 m, tải trọng 609 tấn, được trang bị với động cơ diesel MTU, làm cho con tàu có thể tăng tốc độ tới 32,5 hải lý/giờ, hệ thống vũ khí bao gồm được trang bị với 8 hỏa tiễn chống tàu Kh-35 Uran. Ban đầu, dự án này đã được Việt Nam lên kế hoạch để đóng tới 10 tàu, nhưng cuối cùng chỉ có một chiếc, mang số hiệu HQ-381 được đóng hoàn thành và đưa vào sử dụng năm 1999. Dự án này sau đó bị dừng hẳn vì là công nghệ cũ lỗi thời của Nga được Nga gạ bán cho các tham quan trong BQP. Nguồn:https://vi.wikipedia.org/wiki/HQ-272

Sáng 9/10/2017, Tổng Công ty Ba Son đã bàn giao cặp tàu có trang bị hỏa tiễn Molniya mang số hiệu 382 và 383 cho Hải quân Việt Nam.

Hai chiếc tàu trang bị hỏa tiễn mới nhất đã được bàn giao cho Lữ đoàn 167, Bộ Tư lệnh Vùng 2 Hải quân. Cặp tàu tên lửa M5, M6 (mang số hiệu 382, 383) nằm trong lô 6 chiếc đầu được Quân chủng hải quân ký hợp đồng đóng mới với Tổng Công ty Ba Son (Tổng cục Công nghiệp Quốc phòng) từ năm 2009 dưới hình thức chuyển giao công nghệ từ Nga. Nguồn: https://baonghean.vn/hai-quan-viet-nam-dua-2-tau-molniya-moi-vao-trang-bi-155126.html

Tóm lại các vũ khí mà các trạng nổ của Bộ Quốc Phòng CHXHCNVN nói là do VN sản xuất súng cá nhân, là từ việc mua bản quyền từ Israel, còn các tàu chiến trang bị hỏa tiển cũng mua bản quyền từ Nga. Như xe Vinfast gọi là Ma Dzê in VN nhưng đó hệ thống sản xuất lỗi thời của BMW Đức bán lại cho tỉ phú mì tôm Phạm Nhật Vượng. Hiện tại khả năng sản xuất khí tài của VN chỉ mới ở giai đoạn lắp ráp, chưa có thể gọi là tự sản xuất được . Tuy nhiên các tham quan lãnh đạo trong BQP đều cầm đèn chạy trước Ô Tô, để thoát được cái ngu truyền thống của các đỉnh cao trí tuệ  tự tôn Pắc Bó.

Tổng hợp từ Hậu Duệ VNCH Lê Kim Anh 30.03.2021

Chủ Nhật, 28 tháng 3, 2021

 GIĂC TỪ MIỀN BẮC VÔ ĐÂY

(Cục chính huấn VNCH)







Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay dính máu đồng bào

Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay vấy máu anh em.

Hận thù đó! chất cao trong lòng người
Hận thù đó! chất cao trong lòng tôi, lòng anh

Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay chiến tích hận thù
Giặc từ miền Bắc vô đây, bàn tay giết chóc hôi tanh.

Giặc cờ đỏ: Xâm lăng.
Giặc cờ đỏ: Bạo tàn.
Giặc cờ đỏ giết hại dân lành đốt phá quê hương

DK: Ôi vùng Trị Thiên, An Lộc, vùng Tam Biên
lửa máu từ rừng sâu ngụt trời
Dòng máu đỏ da vàng, trên đất nghèo nàn đã đổ vì ai

Kìa giặc thù đốt phá quê hương ta
Kìa giặc thù bắn giết đồng bào ta
Kìa giặc thù còn đó !
Kìa giặc thù còn đó !

Anh em ơi vùng lên diệt Bạo Tàn
Anh em ơi vùng lên diệt Áp Bức
Anh em ơi nước có còn ta mới còn

Còn Tự Do là còn cơm no.

Mùa quốc hận 2021 (28.03.2021)

 HÃY TRẢ LẠI TÔI TÊN GỌI SÀI GÒN

( sáng tác của Việt Dzũng)

Hãy trả lại tôi tên gọi Saigon. Tên phố tn phường tôi đã nghe quên. Hòn ngọc Viễn Đông vang vọng một thời. Saigon dấu yêu còn đầy kỷ niệm. Mãi mãi muôn đời không thể thay tên. Hãy trả lại tôi tên gọi ngọt ngào. Tên những con đường tôi đã đi qua. Tên những công viên rì rào lá đổ, nhớ thành phố xưa một thời náo nhiệt. Du khách xuôi ngược ngắm hoa ngày xuân.

Hãy trả lại tôi tên gọi Saigon. Nhà thờ Đức Bà vang tiếng chuông ngân. Chu văn An, Gia Long, Trưng Vương, tên những ngôi trường bạn bè thân thương. Những buổi tan trường ta đến tìm nhau. Hãy trả lại tôi Công Lý, Tự Do. Chùa Vĩnh Nghiêm hương khói uy nghi. Đây Trương Vương, Văn Khoa ngày ấy. Hãy trả lại tôi, hãy trả lại tôi Saigon dấu yêu.

Hãy trả lại tôi bến cảng Bạch Đằng. Nơi những con tầu rẽ sóng ra khơi. Một ngày tháng 4 khói lửa ngập trời. Tượng buồn đứng yên hẹn ngày trở lại. Ta sẽ quay về trong ánh vinh quang.

Hãy trả lại tôi tên gọi Saigon. Nhà thờ ức Bà vang tiếng chuông ngân. Chu văn An, Gia Long, trường Luật tên những ngôi trường bạn bè thân thương. Những buổi tan trường ta đến tìm nhau. Hãy trả lại tôi Công Lý, Tự Do. Chùa Vĩnh Nghiêm hương khói uy nghi. Đây Trương Vương, Văn Khoa ngày ấy. Hãy trả lại tôi, hãy trả lại tôi Saigon dấu yêu.

Hãy trả lại tôi bến cảng Bạch Đằng. Nơi những con tầu rẽ sóng ra khơi. Một ngày tháng 4 khói lửa ngập trời. Tượng buồn đứng yên hẹn ngày trở lại. Ta sẽ quay về trong ánh vinh quang. Saigon dấu yêu còn đầy kỷ niệm. Ta sẽ quay về trong ánh vinh quang.


Thứ Bảy, 27 tháng 3, 2021

 NHỮNG NGƯỜI TRAI HÙNG CỦA MIỀN NAM.

Trước 1975 những người chiến sĩ VNCH từng là những công nhân viên chức, những nông dân chất phác hiền hòa, hay là những sinh viên học sinh...Tất cả đã phải từ giả người thân, bè bạn, luôn cả một tương lai phía trước, để sớm bước vào quân ngũ, trước tình hình chiến sự gia tăng mổi ngày một khốc liệt hơn từ những năm bắt đầu của nền đệ nhị công hòa,,,
Sơn hà nguy biến là một mệnh lệnh lên đường cho các chàng trai miền nam VN... Để bắt đầu dấn thân vai trò bảo quốc an dân,chống lại sự xâm nhập của cộng sản Bắc Việt cho đến ngày bị đồng minh minh HK phản bội vì quyền lợi của quốc gia của họ.
Đời người lính không gì bẻ bàng hơn là hết đạn, trong lúc đối phương nhận được quá nhiều chiến cụ để tiếp tục phá hoại miền nam, đưa đến việc miền nam rơi vào tay giặc cướp.
Đến 30.4.1975, họ đã làm hết bổn phận của một người chiến sĩ VNCH, không ai có thể trách được họ vì đã để miền nam rơi vào tay giặc...Tuy là phe thua cuộc, nhưng những người trai hùng của miền nam, đều được người dân kính trọng và quí mến.


Vai trò lịch sử của VNCH đã sang trang với những uẩn khúc đau buồn đầy nước mắt...
Chúng tôi, những hậu duệ VNCH, rất trân trọng sự hy sinh đó, hàng năm đến tháng tư chúng tôi viết để vinh danh và cảm ơn sự công đức của các chiến sĩ VNCH, các công chức, cán bộ trong bộ máy công quyền của VNCH, không quên thắp nén tâm hương gửi đến những người đã nằm xuống trên đất mẹ VN, để giử gìn tự do và hạnh phúc cho miền nam VN.
Cảm ơn anh! Cảm ơn anh những quân cán chính VNCH!!!
Hậu Duệ VNCH Lê Kim Anh 27.03.2021

ĐẠI HỌC CHIẾN TRANH CHÍNH TRỊ "DI TẢN"

Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh, trong tư cách cựu Chỉ huy trưởng trường Đại Học CTCT Đà Lạt, năm 2002, đã viết bài hồi ký sau đây kể lại cuộc di tản của hai Quân trường Đà Lạt (Võ Bị và CTCT) và Tiểu khu Tuyên Đức, vào cuối tháng 3, 1975. Bài đã được đăng trong Đặc san Ức Trai (Tổng Hội ĐH/CTCT) số Đặc Biệt 30-4 năm 2002. Nhân kỷ niệm ngày Quốc Hận năm nay, chúng tôi hân hạnh được giới thiệu cùng quý độc giả bài hồi ký do Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh viết đã mười lăm năm.

Chỉ còn vài ngày nữa là Tết Nhâm Ngọ 2002 khi tôi viết về cuộc hành quân “di tản” Đại Học CTCT, quân trường rất quý mến, tôi được vinh dự chỉ huy, tái phối trí từ Đà Lạt (31/3/75) về Vùng 3 Chiến Thuật (V3CT), Tam Hiệp (8/4/75), Sài Gòn (29/4/75). Thấm thoát đã 27 mùa xuân, sắp bước sang một Xuân mới.

Dùng từ “di tản” trong ngoặc kép tôi muốn bày tỏ ý kiến riêng, “di tản” là cách nói miệng, không phải từ ngữ trong lệnh chuyển quân, nhưng là lối nói phổ biến trong truyền thông, báo chí của thời điểm QLVNCH buông súng chống Cộng. Buông súng vì đồng minh phản bội: thỏa hiệp ngầm với kẻ thù, rút quân, cắt viện trợ vũ khí, đạn dược, xăng dầu, ngưng oanh tạc Cộng sản bằng B52 và nhất là thỏa thuận cho Cộng sản ở lại miền Nam sau Hiệp định 27/1/1973, làm ngơ cho chúng công khai chuyển quân xuống miền Nam giữa ban ngày trong khi chúng được Liên Sô, Trung Cộng tăng viện mọi mặt.

Tình hình đầu Xuân Ất Mão 1975

Đầu năm 1975, sau khi quân đội Cộng sản chiếm Phước Long, Ban Mê Thuột, tình hình quân sự của VNCH xấu dần. Các tỉnh địa đầu Quảng Trị, Thừa Thiên lần lượt rơi vào tay Cộng sản. Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi không còn. Các đơn vị thuộc Quân Đoàn I, Vùng I Chiến Thuật rã ngũ về Cam Ranh, Hàm Tân. Quân Đoàn II, V2CT chuyển quân qua Phú Bổn về Qui Nhơn, Tuy Hòa theo Liên tỉnh lộ 7B, Bộ Tư Lệnh tái phối trí tại Nha Trang. Quảng Đức, Lâm Đồng bỏ trống, Tuyên Đức, Đà Lạt trong thế cô đơn, không được chỉ thị nào của Bộ Tổng Tham Mưu hay Quân Đoàn II, cũng phải theo số phận các tỉnh lân cận. Thiếu tướng Lâm Quang Thơ, chỉ huy trưởng trường Võ Bị Quốc Gia (VBQG), triệu tập phiên họp ba người gồm Thiếu tướng Thơ, Đại tá Nguyễn Hợp Đoàn, tỉnh trưởng Tuyên Đức kiêm Thị trưởng Đà Lạt, và tôi, Chỉ huy trưởng trường Đại Học CTCT, kiểm điểm tình hình, thảo luận việc phòng thủ Đà Lạt, di chuyển về V3CT khi cần.

Quyết định rời Đà Lạt, tái phối trí tại Bình Tuy (Hàm Tân)

Hai ngày sau, phiên họp thứ hai tại Trường VBQG tái nhóm. Kiểm điểm tình hình: Không liên lạc được với các thẩm quyền Bộ Tổng Tham Mưu (TTM), Tổng Tham Mưu Trưởng, Tham Mưu Trưởng Liên Quân, và QĐ II, V2CT, Tư Lệnh Vùng, Tham Mưu Trưởng, mất liên lạc với Quảng Đức, Lâm Đồng đã di tản. Quyết định: Đà Lạt, Tuyên Đức, và các đơn vị quân trường trú đóng, trường VBQG, trường ĐH/CTCT di chuyển về V3CT. Trường VBQG chuyển Sinh Viên Sĩ Quan (SVSQ), lực lượng cơ hữu tới các vị trí cao độ chung quanh quận Đơn Dương trong ngày 31 tháng 3 bảo vệ các đơn vị Địa phương quân, Nghĩa quân, Chính quyền Đà Lạt, Tuyên Đức; trường ĐH/CTCT và các thành phần trường VBQG còn lại chuyển quân. Giờ G: chạng vạng tối 31. Mật lệnh: VC tấn công thị xã Đà Lạt.

Không tin vào ngày giờ tốt xấu hoặc cái khâu, cái mốc trong chu kỳ hàng năm sinh hoạt của trường ĐH/CTCT nhưng SVSQ, sĩ quan tu nghiệp các khóa căn bản, trung cao cấp CTCT và quân nhân cơ hữu, nhân viên dân chính quốc phòng đều phập phồng lo âu trước ngày 1 tháng 4 mỗi năm, vì 1 tháng 4 năm 1970 trường bị Cộng sản tấn công, tổn thất nhân mạng: 4 quân nhân cơ hữu, 4 SVSQ, 17 sĩ quan khóa sinh tuyên úy. Ngày 1 tháng 4 những năm kế tiếp thường có những việc không may xảy đến: xe lật, SVSQ bị thương tích khi thực tập quân sự hoặc thể dục thể thao.

Rời bỏ quân trường thân yêu, đồi 4648 vị trí tiên khởi, đồi 4650 vị trí kế tiếp (nguyên cơ sở trú đóng của trường Chỉ Huy Tham Mưu trước khi rời về Long Bình) cũng đêm 31 tháng 3 rạng 1 tháng 4, 1975.

Từ 15 tháng 3, 1975, gia đình quân nhân cơ hữu từ sĩ quan đến hạ sĩ quan, binh sĩ, nhân viên quốc phòng đã được khuyến cáo di tản về Sài Gòn và các tỉnh phía Nam bằng phương tiện tự túc: hàng không, đường bộ cùng với đồng bào Đà Lạt, lúc đó đã hoang mang tột độ. 21 giờ tối 29 tháng 3, phóng viên đài Quân Đội điện thoại cho tôi xin phỏng vấn. Tôi hỏi:

– Anh lên đây, hay ngay bây giờ qua điện thoại?

– Ngay bây giờ.

– Tôi không có thẩm quyền vì chỉ là chỉ huy một quân trường trú đóng tại Đà Lạt.

– Không sao! Vì chúng tôi chỉ xin biết trường ĐH/CTCT còn ở Đà Lạt không hay đã di tản?

– Tôi vẫn ở đây, đang nói chuyện với anh và tham gia với trường Võ Bị Quốc Gia, các lực lượng Tuyên Đức bảo vệ Đà Lạt.

– Xin cám ơn.

Sáng hôm sau, 30 tháng 3 tham dự phiên tái nhóm với Thiếu tướng Thơ, Đại tá Đoàn. Quyết định của vị chủ tọa: di chuyển tái phối trí tại V3CT. Tôi băn khoăn về câu trả lời phóng viên Đài Tiếng Nói Quân Đội. Sự thực, tôi vẫn còn ở Đà Lạt vì lòng còn muốn bảo vệ thành phồ duyên dáng này, nhưng chưa tới 24 tiếng đồng hồ, tình thế đã khác hẳn.

Trưa ngày 31, tôi đang dùng cơm, mấy bà con thân hữu tại Đà Lạt đến thăm, dò hỏi hai quân trường: “Võ Bị, CTCT có rời Đà Lạt không?” – “Tôi còn ở đây, các ông có thấy gì khác lạ trong nhà tôi không?” Trấn an các thân hữu hoang mang, bối rối, nhưng chính mình cũng không khỏi suy nghĩ mông lung. “Chuyển quân, rút quân” phải bí mật, bất ngờ, kín đáo. Không thể tiết lộ với thân hữu được vì trách nhiệm chỉ huy, vì bảo vệ an ninh cho quân trường với bao nhiêu sinh mạng trong tay, hớ hênh để CS nằm vùng biết rõ chi tiết di tản thì vô cùng nguy hiểm. Lui binh, rút quân trên bình diện chiến lược quy mô lớn, chuyển quân, tái phối trí trên phạm vi chiến thuật nhỏ cũng đều tôn trọng các yếu tố: Kín Đáo, Bí Mật, Bất Ngờ. Vì vậy các chiến hữu gần gũi tôi nhất trong giờ phút chót chuyển quân, rời Đà Lạt, tái phối trí cũng không biết quân trường có di tản hay không, và nếu có thì lúc nào? Vào buổi sáng 31/3/1975, tôi ra lệnh vắn tắt: Sẵn sàng đối phó với mọi tình huống, cấp phát cho SVSQ theo Tiêu Lệnh Hành Quân 3 ngày lương khô, 2 đơn vị đạn dược, sau cơm chiều, vũ khí cá nhân, cộng đồng trên người, quân phục tác chiến, bi đông nước, đem theo đĩa ăn, muỗng nĩa (SVSQ được trang bị một bộ đĩa, muỗng nĩa, loại tốt, thường ngày dùng ở phạn xá, nay mang theo).

– Sĩ quan khoá sinh các khóa các khóa căn bản, trung, cao cấp CTCT cũng được cấp phát lương khô.

– Khối Hành Chánh Tiếp Vận: Chuẩn bị cho phạn xá 1 GMC đem đủ dụng cụ nhà bếp hành quân di chuyển. Đem theo gạo tùy quân số khi dùng

– Quân xa các loại đầy đủ nhiên liệu.

– 2 xe bồn: xăng, dầu cặn.

– Xe buýt sinh viên

– 2 đơn vị đạn dược trừ bị.

– Bệnh xá: dụng cụ cứu thương, thuốc men.

Giã từ Đà Lạt

Giờ G: 19 giờ ngày 31 tháng 3, 1975: Điện thoại của Tỉnh trưởng Thị trưởng Tuyên Đức-Đà Lạt cho Chỉ huy trưởng trường ĐH/CTCT: VC tấn công thị xã (mật khẩu). Tôi bèn ra lệnh tập trung:

– Sĩ quan khóa sinh Căn bản, trung, cao cấp CTCT tại trại Lam Sơn đồi 4648, dưới quyền chỉ huy của Trung tá Đồng Văn Chân, Quân Huấn Vụ trưởng. SVSQ/ĐH/CTCT: Trại Chi Lăng đồi 4650 dưới sự chỉ huy của Bộ Chỉ huy Trường. Di chuyển khi có lệnh.

Theo ước hiệu giữa Thiếu tướng Thơ và tôi, khi nào Thiếu tướng đi xe jeep ngang qua trường ĐH/CTCT theo lối tắt từ BCH cũ trường VBQG xuyên qua ĐH/CTCT, gặp tôi báo cáo “xong” Thiếu tướng mới cho lệnh nổ mìn phá kho xăng và phòng thí nghiệm nặng (heavy lab) của trường Võ Bị và đó là lệnh di chuyển. Chiều ấy tại trại Chi Lăng tôi đang điều động Bộ Tham Mưu trường, Liên Đoàn SVSQ, liên lạc vô tuyến với Trung tá Đồng Văn Chân chỉ huy các bộ phận bên trại Lam Sơn gồm có các sĩ quan khóa sinh các khóa căn bản, trung, cao cấp CTCT, khối Hành Chánh Tiếp Vận thì Thiếu tướng Thơ, trên xe jeep ngang qua hỏi tôi: “Xong chưa?” Tôi xin 15 phút nữa, nhưng xe của Thiếu tướng vừa tới cổng mới đang xây của trường ĐH/CTCT và Bệnh xá Tiểu Khu thì hai tiếng nổ long trời, lửa bùng lên cao, kho xăng, kho đạn, heavy lab của trường Võ Bị đã cháy. Lệnh di chuyển rời Đà Lạt đã ban hành hơi sớm.

Đoàn quân xa trường ĐH/CTCT từ từ chuyển bánh, ra khỏi cổng trường Chi Lăng, ngay Bệnh xá Tiểu khu Tuyên Đức rẽ trái, hướng về phía Đơn Dương, đèo Ngoạn Mục. Màn đêm buông xuống. Xe nối đuôi nhau khoảng cách không quá một trăm thước, tốc độ vừa phải theo kỹ thuật di chuyển “công voa” (convoi), không dùng đèn pha chiếu sáng, mở đèn “mắt mèo” (black out) vì đường đèo nhiều khúc quanh, khúc khuỷu. Đà Lạt lùi dần về phía sau, chìm trong sương. Đến Trại Mát (10 cây số cách Trung tâm Đà Lạt), đoàn xe dừng lại, 5 xe GMC quay về hướng Đà Lạt chuyển các thành phần cơ hữu và SVSQ phải di chuyển đợt 2. SVSQ, sĩ quan khóa sinh, Bộ Chỉ huy Trường đi bộ, nhường xe, kể cả xe buýt của SVSQ, cho gia đình binh sĩ, chuyển nhanh đến Cầu Đất phía trước, rồi quay lại đón đoàn người đi bộ, đưa nhanh họ vào đèo Ngoạn Mục, quay lại đón đoàn người đến lúc trước ở Cầu Đất, chuyển họ nhanh lên đỉnh đèo, cứ như thế, trường ĐH/CTCT di chuyển sinh viên các khóa 4, 5, 6 (600 người), sĩ quan khóa sinh các khóa căn bản, trung, cao cấp CTCT (300 người), quân nhân cơ hữu (200 người), không có phương tiện di tản về Sài Gòn và các tỉnh phía Nam trước 31 tháng 3. Hai trăm quân nhân và gia đình thuộc trường VBQG, Tiểu khu Tuyên Đức-Đà Lạt tự động nhập vào đoàn di tản (trường ĐH/CTCT). Tổng cộng 1200 người, con số phỏng định khi rời Đà Lạt và đến quận Sông Pha, chân đèo Ngoạn Mục, nhà máy thủy điện Đa Nhim. Từ Sông Pha xuống Phan Thiết, ngược lại Phan Rí Cửa, số quân nhân trường VBQG, Tiểu khu Tuyên Đức-Đà Lạt và gia đình không theo đoàn quân di chuyển trường ĐH/CTCT nữa.

Hành quân di chuyển theo cách đi “con vẹt” (marche perroquet – parrot march). Vì thế chậm, mất nhiều thì giờ. 9 giờ sáng ngày 1 tháng 4, 1975, trường ĐH/CTCT mới chuyển quân xong, tới địa điểm tập hợp đấu tiên của trường VBQG, ĐH/CTCT, và Tiểu khu Tuyên Đức-Đà Lạt.

Chuyển quân giai đoạn 2

Thiếu tướng Thơ, Đại tá Đoàn, Trung tá Nhất, quận trưởng quận Sông Pha, và tôi họp kiểm điểm tình hình: tổng quát, tình hình xấu. Đà Nẵng thất thủ 31 tháng 3. VC có tăng 54, cơ giới hóa, đang tiến xuống Nam. Nha Trang bị áp lực, có thể từ Pleiku, Kontum xuống bao vây các tỉnh duyên hải bằng nhiều sư đoàn. Các đơn vị từ Đà Lạt xuống tiếp tục chuyển quân tái phối trí giai đoạn 2 về Bình Tuy (Hàm Tân). Đợi lệnh Bộ TTM. Đơn vị nào có đủ phương tiện, chuyển quân trước.

Trong trường hợp này, trường VBQG có đủ xe GMC chuyển SVSQ về Bình Tuy sớm. Tiểu khu Tuyên Đức-Đà Lạt không còn nhiều đơn vị, ít người, cũng chuyển quân nhanh. Chỉ có trường ĐH/CTCT không có đủ xe GMC chuyển quân, lại còn nhân viên cơ hữu, dân chính quốc phòng, và gia đình binh sĩ đi theo. Đến 10 giờ sáng ngày 1 tháng 4 mới tập trung được đủ người, chậm trễ vì phải đi bộ hành quân với đội hình “con vẹt”. Tôi lo ngại nhưng vẫn tin tưởng vào tinh thần kỷ luật của toàn thể quân trường.

Tập trung xong cho mọi người nghỉ chân, ăn cơm trưa, tôi vào nhà thờ Quảng Thuận, thuộc Trung tâm định cư của đồng bào Quảng Trị sau mùa hè đỏ lửa 1972, tìm gặp cha Đỗ Bá Ái, cựu tuyên úy QLVNCH, để được biết thêm tình hình, an ninh trên lộ trình sắp di chuyển. Cha đi vắng, tôi trở lại với đoàn quân, ra khỏi nhà thờ, tình cờ gặp cha Maïs, giáo sư Pháp ngữ Viện Đại Học Đà Lạt, người tôi đã nhờ nhuận sắc bản dịch sang Pháp ngữ cuốn Tổng Công Kích Mậu Thân 1968 do Phòng 5 Bộ TTM phát hành khi tôi còn là Trưởng Phòng trước khi nhận nhiệm vụ Chỉ Huy ĐH/CTCT. Vốn có cảm tình từ trước, Cha hỏi tôi đi đâu bây giờ?

– Chúng tôi di chuyển tái phối trí, tôi trả lời bằng Pháp ngữ (nous devons nous re-déployer).

Cha hỏi tiếp:

– Nhưng ở đâu? (mais où alors?).

– Chúng tôi đang ở trên lãnh thổ Phan Rang (nous sommes sur le territoire de Phan Rang).

Tôi hỏi lại Cha:

– Thế còn Cha ? Cha đi đâu?

– Tôi vừa ở Nha Trang về sau khi thu xếp cho các Nữ tu Dòng Kín về Sài Gòn rồi về Pháp, tôi sẽ trở lên Đà Lạt.

Từ giã Cha Maïs, tôi nghĩ đến giải pháp: mượn xe? trưng dụng? thuê xe đò? Đến chỗ dừng chân, tạm nghỉ, tôi nêu ý kiến hỏi các sĩ quan tham mưu. “Suốt từ sáng đến giờ, không thấy bóng dáng một chiếc xe nào ngoại trừ xe của mình –tất cả đồng thanh trả lời– Phải trưng dụng thôi.”

Tôi trầm ngâm. Là một ĐH/CTCT, sao có thể trưng dụng… Nhưng một lát sau, một xe chở cây gỗ (loại xe rừng) được anh em chặn lại, tỏ ý kiến trưng dụng. Ông chủ xe đến trước mặt tôi sụp lạy như tế sao, mếu máo: “Xin Đại tá làm phước cho vợ con tôi ở Đà Lạt đang trông chờ tôi về.” “Chính tôi phải lạy ông, ông đừng làm thế…” Tôi đỡ ông dậy, ôn tồn: “Ông giúp chúng tôi chuyển quân đến Bình Tuy, một chuyến thôi, xong ông về. Tôi đang chỉ huy, không thể lạy ông được, xin ông thông cảm.” Ông miễn cưỡng xuôi lòng.

Trung tá Đồng Văn Chân đi xe jeep được chỉ định chỉ huy một toán tiền thám gồm đa số khóa sinh trung, cao cấp CTCT, leo lên xe cây. Xe chuyển bánh, hướng về Phan Thiết, Hàm Tân. Tôi có chủ đích dùng các sĩ quan khóa sinh có khả năng chiến đấu, phản ứng tốt hơn nếu bị VC phục kích chặn đường. Nhưng lòng thấy ngậm ngùi, bất đắc dĩ phải trưng dụng. Nếu ông chủ xe không may mắn ngày ấy có cơ hội đọc được những dòng này, xin nhận lời tạ ơn muộn màng của tôi.

Trung tá Đồng Văn Chân và đội tiền thám với xe cây đi rồi, tôi sực nhớ chưa hỏi Cha Maïs tình hình Nha Trang và đường về đến đây qua Phan Rang có VC không thì vài đồng bào gốc Quảng Trị quen biết tôi đem xôi, thịt gà luộc tiếp tế cho tôi, có gia đình xin đi theo đoàn quân. Cha Đỗ Bá Ái xuất hiện. Có lẽ buổi sáng người giúp việc cho Cha không biết tôi là ai nên trả lời Cha đi vắng, nay đồng bào Quảng Trị biết tôi, tiếp tế cho tôi, nên Cha đến gặp vì là chỗ thân tình cũ. Câu hỏi đầu tiên của Cha không khác của Cha Maïs : “Đến đây rồi đi đâu nữa?” “Về Hàm Tân, V3CT. Rồi ra ngoại quốc nếu cần.” Tôi thành thực trả lời, không giấu giếm Cha, đầu óc đang mông lung, thoảng nhớ câu dặn dò của Sĩ Quan Cố Vấn trưởng Trung Hoa Dân Quốc tại ĐH/CTCT nói với tôi tháng 1,1975 khi tôi chuẩn bị đi Đài Bắc trong nhiệm vụ đại diện Bộ Quốc Phòng và Bộ TTM/QLVNCH ký thỏa hiệp giữa hai Đại Học CTCT Đài Bắc và Đà Lạt là Tỷ Muội Học Đường (Sister Academies): “Có biến cố lớn, việc ký thỏa hiệp sẽ hoãn. Nếu yên ổn tháng 5/75 sẽ ký. Nếu có biến cố, chúng tôi có tàu biển sang đón các cán bộ CTCT cần đi.”

Sau câu chuyện giữa Cha Ái và tôi qua vài câu hỏi ngắn ngủi trên, tôi chia tay với Cha để chuẩn bị tiếp tục hành trình. Sau này tôi biết Cha cũng mượn được tàu Hải Quân VN đưa một số đồng bào Quảng Trị đến Phú Quốc nhưng không có tàu ra hải phận quốc tế, phải trở về. Cha đi tù cải tạo, nay quản nhiệm một giáo xứ VN ở Pennsylvania.

Tàu biển Trung Hoa Dân Quốc (Đài Loan) tham gia chuyên chở các toán quân và đồng bào di tản từ Đà Nẵng về Cam Ranh, Vũng Tàu cùng với Đệ Thất Hạm Đội của Mỹ, tàu của Úc, Đại Hàn… trong những ngày đen tối cuối tháng 3 đầu tháng 4, 1975 theo Olivier Todd trong cuốn Cruel Avril (bản tiếng Pháp), Cruel April (bản tiếng Anh) hay Tháng Tư Đen (bản tiếng Việt, Phạm Kim Vinh chuyển ngữ).

Thị trấn Tháp Chàm

Các đơn vị của trường VBQG, Tiểu Khu Tuyên Đức-Đà Lạt chuyển quân gần xong về hướng Hàm Tân, trường ĐH/CTCT mới ăn xong bữa trưa. Có tin hỗn loạn xảy ra tại Phan Rang vì các đơn vị rã ngũ.

Số xe GMC của trường ĐH/CTCT (khoảng 14, 15 chiếc) không đủ chuyển một chuyến hết số người còn lại –gần 1000 sau khi gia đình binh sĩ trường VBQG, Tiểu khu Tuyên Đức-Đà Lạt không đi theo đoàn quân ĐH/CTCT nữa. Phải chấp nhận mỗi GMC chỉ chở toán vũ trang nhẹ gồm 10 SVSQ và 20 đến 25 người không chiến đấu (gia đình binh sĩ) chạy chậm ngang qua thị trấn Tháp Chàm 5 cây số, tập trung gia đình binh sĩ tại đó, trở lại chuyển dần những người còn đi bộ.

Đến thị trấn Tháp Chàm, đoàn quân đang di chuyển trật tự, bỗng một người mặc thường phục chạy theo xe jeep của tôi (chạy chậm dưới 10/giờ) hớt hãi nói: “Thưa Đại tá, tôi là sĩ quan Tiểu khu Tuyên Đức, gia đình tôi đang bị cướp phá, xin Đại tá cho người đến cứu chúng tôi”. – “Chúng tôi đang chuyển quân, không thể giúp ông được”.

Buồn, đáng thương. Sau này có người nói với tôi khi Trường ĐH/CTCT di chuyển qua Tháp Chàm, cả một đoàn quân đi ngang qua mà không giúp được dân bị đám người vô kỷ luật cướp phá. Một lời chê trách tôi không trực tiếp trả lời được. Hy vọng những dòng này sẽ được ông bà nào trong hoàn cảnh đó đọc và thông cảm chúng tôi có trách nhiệm về sinh mạng của gần ngàn người, có dân trong đó, nên không làm được một công tác “chiến tranh chính trị đúng là phải làm”.

Viết đến đây thì Đại tá Nguyễn Quốc Quỳnh bị bệnh, không thể tiếp tục. Và ông mất ngày 13/6/2014, hưởng đại thọ 92 tuổi. Xin quý vị, quý bạn đọc thêm hai đoạn trích về cuộc di tản dưới góc cạnh khác, tường thuật bởi Trần Thanh Sơn, SVSQ khóa 4, hiện ở Irvine (cf. Ức Trai, số đặc biệt 30/4, 2002), và bởi Kim Thanh, Đại úy Trưởng khoa Nhân Văn Xã Hội, Văn Hóa Vụ…

THÁNG TƯ, BỎ LẠI
Trần Thanh Sơn, SVSQ/CTCT khóa 4

… Khi đến Phan Rang, thành phố này đã thực sự mất kiểm soát, náo loạn khắp nơi. Đoàn xe chúng tôi đã thật khó khăn khi chen chúc vượt qua thị trấn này. Nhiều thường dân, binh sĩ xin theo đoàn không được, có người làm hoảng. Chính tại nơi đây, lần đầu tiên và có lẽ duy nhất trong đời cận vệ, trung úy Thạch Minh Lợi đã có dịp thi thố khả năng của mình, khi Đại tá CHT suýt bị làm hỗn. Có một điều ai nấy cũng đều ngưỡng mộ người chỉ huy trưởng khả kính này, trong mọi thời điểm suốt những chặng đường dù nguy hiểm đến đâu, ông cũng theo sát cả đoàn để ban hành những khẩu lệnh kịp thời, kể cả những khi cùng lội bộ, bất chấp an ninh của cá nhân ông. […].

Sau đó thì có lệnh Tiểu khu trưởng Phan Thiết cho bắn pháo, ngăn chận không để mọi thành phần di tản vào thành phố, do đó đoàn di tản phải quay ngược trở về Phan Rí, toán trinh sát không bắt tay được với Trường Mẹ […].

Trở lại với đoàn di tản, đã bước sang ngày thứ năm, chúng tôi ai nấy đều thấm mệt, có đêm hoàn toàn không chợp mắt hay kê lưng vì cứ phải chạy, có đêm may mắn nằm ở trưòng học nhắm mắt được chỉ đôi ba tiếng, tuy nhiên tinh thần thì rất vững, chấp hành kỷ luật quân trường tối đa, một phần vì tất cả các cấp chỉ huy đều vẫn còn giữ kỷ cương, phẩm cách và sự gương mẫu của cán bộ quân trường, nên quyết cùng sống chết với nhau.

Ở Lương Sơn, Bộ chỉ huy Trường sau khi nhận định tình hình, để tránh thiệt hại nếu cứ tiếp tục dùng đường bộ, vì lúc này đường Phan Thiết đã mất an ninh và đã bị cấm cửa, Đại tá chỉ huy trưởng đã có một quyết định, mà cho đến giờ này sau gần 30 năm, khi già rồi, chúng tôi mới thấy rõ đó là một quyết định rất sáng suốt và nhậy bén của một cấp chỉ huy, biết tiết kiệm xương máu cho tất cả thuộc cấp. Ông đã ra lệnh, vẫn với cung cách cố hữu của con nhà nghèo: tất cả mọi người dốc hết tiền đang có để thuê ghe chở toàn bộ Trường Mẹ từ Phan Rí Cửa về Vũng Tàu. Tiền đóng góp đã nhanh nhẹn được thu vào những chiếc nón sắt, nhất là với sự tự giác cao độ của người SVSQ trong những lúc hiểm nghèo, cộng thêm số ngân quỹ do Khối Tài Chánh mang theo. Sau này Tổng Cục CTCT đã hoàn trả lại số tiền kể trên cho mọi người. Tất cả di chuyển về Phan Rí Cửa, nơi đây đã được hẹn trước cùng đoàn ghe đánh cá. Cuối cùng, lúc 2 giờ 30 phút trưa ngày 6 tháng 4, toàn bộ trường ĐH/CTCT đã sẵn sàng trên những chiếc ghe đánh cá đã được thỏa thuận thuê mướn sòng phẳng, lộng gió hướng thẳng về Vũng Tàu –vùng đất Tự Do còn lại.

Trần Thanh Sơn,
SVSQ/CTCT khóa 4