Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2017

Trường Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng



Trường Trung Học Kỹ thuật Cao Thắng được thành lập ngày 20/02/1906 với tên gọi ban đầu là ÉCOLE DES MÉCHANICIENS ASIATIQUES (Trường Cơ Khí Á Châu), là trường dạy nghề thứ hai do thực dân Pháp lập ra ở Nam bộ. Trường đầu tiên lập năm 1898 là Cour d’Apprentissage, sau nầy mang tên là Trung Học Kỹ Thuật Nguyễn Trường Tộ, tọa lạc tại 25 bis Hồng Thập Tự Quận Nhất Sàigòn, nay tại số 2 Mai Thị Lựu Phường Đa Kao Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.
Trường Cao Thắng tọa lạc tại số 65 đường Huỳnh Thúc Kháng - Phường Bến Nghé - Quận 1 – Thành Phố Hồ Chí Minh.
Niên học 1956-1957 Trường có thành lập một chi nhánh, gồm có 5 lớp Đệ Thất A, B, C, D, E đặt trong khuôn viên Nha Kỹ Thuật Và Mỹ Thuật Học Vụ số 48 Phan Đình Phùng. Chi nhánh có tên là Trường Kỹ Thuật Phan Đình Phùng, địa chỉ số 2 đươờg Phạm Đăng Hưng, Quận 1, Sàigòn. Chi nhánh Trường Kỹ Thuật Phan Đình Phùng chỉ mở ra có một năm mà thôi.
Trước năm 1975, Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng là Trường Kỹ thuật đệ nhị cấp, đào tạo học sinh tốt nghiệp Tú Tài II Kỹ thuật để thi vào các trường Cao Đẳng thuộc Đại Học Bách Khoa Phú Thọ.
Sau 1975, Trường đào tạo 3 hệ: Cao đẳng kỹ thuật, Trung học kỹ thuật và Công nhân kỹ thuật bậc 3/7. 
Trường ngày nay được xây cất lại hầu hết từ phòng học cho đến các xưởng, trừ dãi lầu đồng hồ xây cất từ năm 1924 được giữ nguyên để làm Phòng truyền thống của Trường.


Ông Emmanuel Rosel vị Hiệu Trưởng đầu tiên 

Lịch trình xây cất
NĂM 1906: Trường Cơ Khí Á Châu được khởi đầu xây cất với một gian nhà lợp thiếc tại góc đường De lattre de Tassigry và đại lộ Hàm Nghi hiện nay. Trong căn nhà lợp thiếc, chỉ có vẻn vẹn một xưởng cơ khí nhỏ, phía Đông nhà trường là kho xưởng hoả xa chạy đường Sài Gòn-Chợ Lớn. Lúc bấy giờ, chợ mới Sài gòn còn là một vũng sình lầy, đại lộ Nguyễn Huệ còn là một con kênh và xóm đường Huỳnh Thúc Kháng hãy còn là một khu rừng sậy.

NĂM 1907:  
Lúc đầu nhà trường chưa được trang bị đầy đủ nên phần thực hành phải nhờ đến cơ xưởng của trường Thực Nghiệp, tại đường Hồng Thập Tự bây giờ.

NĂM 1908: Giảng đường phía đại lộ De lattre de Tassigry được xây cất thêm: ở trên làm ký túc xá, ở dưới làm lớp học và kho vật liệu, máy móc. Chương trình học gồm có nhiều môn trong kỹ nghệ, nên dân chúng gọi trường Cơ Khí Á Châu là trường Bá Nghệ.
Cổng Trường và Giảng Đường xây cất năm 1908

NĂM 1909: Một xưởng cơ khí sườn sắt lợp thiếc được xây cất, hiện nay hãy còn nguyên vẹn và dùng làm xưởng nguội, tiện, máy dụng cụ, cùng kho vật liệu tại góc đường De lattre de Tassigry và đại lộ Hàm Nghi.
Xưởng xây cất năm 1909
 Bên trong học Nguội và Máy Dụng Cụ
Xưởng ở góc trái lợp tôn xây cất năm 1909, xưởng lợp ngói đỏ xây cất năm 1926
 NĂM 1911: Nhà trường có thêm 2 lớp học, hiện nay là tầng dưới dãy nhà chạy dài từ phía trước văn phòng đến phòng đọc sách học sinh bây giờ. 
(Xem hình dãy nhà B ở dưới - năm 1916 xây tầng trên)
 NĂM 1913: Nhà trường xây cất thêm tầng dưới dãy nhà bên trái cổng vào để làm văn phòng hiệu trưởng và văn phòng thư ký.
Tầng dưới: phòng Hiệu Trưởng, hành chánh xây năm 1913, không có tầng trên
NĂM 1914: Đại chiến thế giới thứ nhất bùng nổ. Công việc xây cất và trang bị càng tiếp tục không ngừng. Ssuốt trong thời kỳ chiến tranh ấy, trường Cơ Khí Á Châu sản xuất rất nhiều tạc đạn 75 ly cho quân đội, cùng tuyển mộ và đào tạo một số đông thợ chuyên môn để sang Pháp tùng chinh.
NĂM 1916: Xây thêm tầng trên dãy nhà từ bồn kiểng đến phòng đọc sách học sinh để làm ký túc xá.
Phân nửa trái tầng dưới xây năm 1911, tầng trên xây năm 1916, phân nửa phải xây năm 1917
NĂM 1917: Dãy nhà trên được nối thêm cho đến xưởng máy. Tầng trên làm phòng ngủ, tầng dưới làm phòng ăn cho học sinh nội trú.
NĂM 1918: Phía trên văn phòng Hiệu trưởng được cất thêm lầu để làm phòng ngủ và phòng y tế cho học sinh.
Tầng trên xây năm 1918
NĂM 1919: Một biệt thự đội được xây dựng tại góc đường Pasteur và Huỳnh Thúc Kháng để làm nhà ở cho ông tổng giám thị và trưởng xưởng công xa.
NĂM 1922: khu xưởng Hoả xa được dời đi nơi khác. Trường Cơ Khí Á Châu nới rộng vị trí phía Đông đến đường Pasteur hiện giờ.
NĂM 1924: Nhà trường xây cất thêm dãy lầu có đồng hồ để làm nhà ở cho các giáo chức trên lâu, và nhà để công xa tầng trệt.
Dãi lầu đồng hồ
NĂM 1926: Một dãy cơ xưởng được dựng lên tiếp theo, để làm chỗ sửa công xa, xưởng máy, xưởng điện, xưởng gò và rèn. Như thế một dãy 5 xưởng hình thành như ta thấy ngày nay.
NĂM 1927: Một dãy nhà 16 căn được xây dựng tại đường Pasteur để làm cư xá cho nhân viên nhà trường.
NĂM 1931: Một giảng đường lớn được dựng lên, nối liền văn phòng hiện giờ với dãy nhà đã có từ năm 1916. 
Giảng đường nằm sát Phòng Hành Chánh.
Ban Giám Đốc Trường và học sinh khóa 1935-1938
NĂM 1936: Một nhà lầu ở phía giữa, tức là ngay liền sau giảng đường nối liền với văn phòng được xây cất với mục đích làm ký túc xá và lớp học cho học sinh Pháp hay lai Pháp. 
NĂM 1939: Thế giới đại chiến thứ 2 nổ bùng.Nhà trường tiếp tục hoạt động, nhưng không xây cất thêm.Ngày 24 thang 10 năm 1939 ,Ông Rosel, Hiệu trưởng sáng lập trường Cơ Khí Á Châu từ trần lúc tại chức và được ông Albert Simon thay thế, ông Albert Simon là một Đại uý Cơ Khí Hải quân. Để tri ân người quá cố đã có công tạo lập ra trường Cơ Khí Á Châu, trường này được chính phủ cho mang thêm danh hiệu, “trường Rosel” (Ecole des mecaniciens-Ecole Rosel)
Năm 1940: Do đề nghị của ông Hiệu trưởng Albert Simon, trường Rosel đổi lại thành “Trường Kỹ Thuật Chuyên Môn” (Ecole Technique Spéciale).
Năm 1941: Ngày 26-12-1941,Trường Kỹ Thuật Chuyên Môn bị quân đội Nhật chiếm đóng cấp tốc và phải tạm dời về Hải quân Công xưởng gọi là Sở Ba Son. Nhà trường chiếm một khu nhà lợp lá gần vàm sông Thị Nghè và bắt đầu hoạt động lại từ 20 –01-1942.
Cũng trong năm ấy, ông Albert Simon bị động viên đi Hải Phòng và được ông Yves Germain thay thế. Ông Yves Germain cũng là một Dại uý cơ khí Hải quân.
Năm 1944: Dưới sự oanh tạc ráo riết của phi cơ Mỹ, nhà trường phải dọn vào tu viện. Séminaire tại đường Cường Để ngày 10-06-1944 đến 07-02-1945, trong các gian nhà của tu viện.
Năm 1945: Ngày 07-02-1945, quân đội Nhật đến chiếm đóng luôn tu viện, nhà trường bị giải tán cho đến ngay đại biến và tổng tản cư.
Năm 1946: Sau khi quân Nhật đầu hàng đồng minh và rút lui khỏi Đông Dương, quân Pháp trở lại chiếm cứ Việt Nam và thành lập chính phủ Nam Kỳ. Trường Kỹ Thuật Chuyên Môn lại trở về vị trí cũ, đường Huỳnh Thúc Kháng. ông Yves Germain trở lại làm Hiệu trưởng, lo tu bổ lại các lớp học và cơ xưởng.
Năm 1947: Nhà trường bắt đầu hoạt động lại như trước. ông Yves Germain về Pháp và ông Gérard Tabouillot, kỹ sư công nghệ đến thay. Nhà trường đổi tên mới là trường Trung Học Đệ Nhất Cấp.
Năm 1949: Ông Tabouillot về Pháp nghỉ phép và được ông Abrall thay thế trong 6 tháng. Ông Abrall từ trần lúc tại chức.
Năm 1950: Vị Hiệu trưởng người Việt Nam đầu tiên đến nhận chức là ông Nguyễn Cao Khoa, kỹ sư điện trường Grenoble, nhưng ông vẫn làm kỹ sư sở Hoả xa mà chỉ kiêm nhiệm Hiệu trưởng thôi.
Năm 1952: Ông Đỗ Văn Trà, Kỹ sư của Bộ công chính đến kiêm nhiệm chức Hiệu trưởng thay ông Nguyễn Cao Khoan.
Năm 1954: Nhà trường bắt đầu mở thêm lớp đệ tam (đệ nhị cấp)
Năm 1956: Ngày 29 tháng 06 năm 1956, trường được đổi tên thành trường trung học kỹ thuật đệ nhị cấp Cao Thắng, có đủ các lớp đệ nhất cấp và đệ nhị cấp để dạy thi tú tài kỹ thuật toàn phần. Nhà trường mở thêm một chi nhánh gồm 5 lớp đệ thất đặt tại Nha Kỹ Thuật và Mỹ Thuật Học Vụ -số 48 Phan Đình Phùng lấy tên là Trung Học Kỹ Thuật Phan Đình Phùng.
Năm 1957: Ông Nguyễn Đăng Hoàng thanh tra kỹ thuật đến kiêm nhiệm Hiệu trưởng thay thế ông Đỗ Văn Trà từ ngày 16-09-1957 đến ngày 16-01-1958. Chi nhánh Phan Đình Phùng được dời luôn về trường trường trung học kỹ thuật đệ nhị cấp Cao Thắng.
Năm 1958: Ngày 17–01-1958, ông Phạm Xuân Độ, thanh tra tiểu học, tốt nghiệp trường cao đẳng sư phạm Đông Dương, Cựu giám đốc học chính Bắc Việt và Cao nguyên đến nhận chức Hiệu trưởng chính thức đầu tiên của trường Trung Học Kỹ Thuật Cao Thắng. Nhà trường ngày càng khuếch trương thêm, dãy nhà nhân viên ở đường Pasteur được sửa chữa lại thành 6 lớp học và 4 phòng nhỏ.
Năm 1959: Nhà trường sửa soạn xây cất lại giảng đường phía lộ De lattre de Tassigry và nới rộng các cơ xưởng để tiếp nhận viện trợ tây Đức. 
Giảng đường và 4 lớp học xây cất năm 1959
Năm 1960: Người Tây Đức đến dạy nghề tại trường cùng máy móc thiết bị, hệ thống tổ chức cùng cán bộ giảng dạy riêng của họ. Giảng đường A nói trên được xây dựng lại trong giai đoạn này.
Phòng Giám Thị nhìn từ trên lầu Giảng Đường
Năm 1961: Người Tây Đức chuyển về trường kỹ thuật Đức Việt, tức trường Công Nghiệp Thủ Đức ngày nay, đem theo máy móc thiết bị(trừ một số máy công cụ và trang thiết bị cho xưởng cơ khí và xưởng kỹ nghệ sắt để tặng lại nhà trường như còn thấy hiện nay). Cũng trong năm này, ông Cao Thành Danh, kỹ sư, đến nhận chức Hiệu trưởng thay ông Độ. 
Hiệu Trưởng Cao Thanh Đảnh ngồi giữa Gs Phạm Doãn Đương và Vũ Mộng Hà
Năm 1965: Ông Lê Đình Viện, Master of Education đến nhận chức Hiệu trưởng.
Mặc Veston từ trái sang phải: GS Nguyễn Khánh Nhuần, HT Lê Đình Viện, GH Phan Văn Long, GS Dương Khắc Long, GS Trần  Văn Đặng, TGX Lưu Luân Trọng
Năm 1967: Ông Nguyễn Hồng Lam, Kỹ sư công nghệ đến nhận chức Hiệu trưởng.
Ngày 30-04-1975: Cộng sản chiếm miền Nam, nhà trường chuyển thành nhà trường xã hội chủ nghĩa, Hiệu trưởng là ông Trần Hữu Tám-chuyên viên kỹ thuật (cựu học sinh của trường khoá 1932-1935).
Năm 1976: Một dãy nhà để xe cho CBCNV HS đã được xây dựng.
Năm 1980: Dãy nhà A được phá bỏ, thay thế vào đó là một khối nhà cao tầng.
Năm 1981: Ông Đinh Văn Mộng-kỹ sư cơ khí nhận chức Hiệu trưởng, thay ông Trần Hữu Tám nghĩ hưu. Tháng 7 năm 1982, trường được bộ chủ quản chấp thuận đổi tên trường thành “Trường Kỹ Thuật Cao Thắng”. Nghề điện được mở lớp đào tạo lại sau thời gian gián đoạn từ năm1978.
Năm 1985: Phòng truyền thống với những tư liệu quý giá về học tập và tham gia đấu tranh của học sinh nhà trường đã hoàn thành, nhằm mục đích giáo dục đối với học sinh trường. 
Phòng Truyền thống
Năm 1989: Ông Võ Hồng Thái, kỹ sư Cơ Khí Ô Tô, nhận chức Hiệu trưởng thay Ông Mộng chuyển công tác. Các lớp Điện Tử, trung học ô Tô, trung học Điện được mở ra từ năm này. Cũng trong năm này, hai hội trường A và B được cải tạo khang trang hơn.
Năm 1991: Dãy nhà dùng làm kho và nơi để ô tô đã được phá dỡ và trên nền nhà này, một sân chơi thể thao đã được hoàn thành.
Năm 1995: Tu chỉnh lại phòng truyền thống.
Năm 1997: Nâng tầng dãy nhà D.
Năm 2000: 1-10-2000, thạc sĩ Đào Khánh Dư nhận chức Hiệu Trưởng thay ông Võ Hồng Thái nghỉ hưu. Xây dựng khu nhà B-5 tầng (khởi công từ 7/2000 hoàn thành tháng 2/2001). tăng thêm 16 phòng học.
Năm 2003: Xây dựng nhà A làm hội trường, các phòng học Cơ điện tử, CAD/CAM, CNC và phòng học của khoa Điện Tử Tin học.
Năm 2004: Ngày 19 tháng 10 năm 2004. Bộ trưởng Bộ Giáo Dục Đào Tạo ký quyết định số 6034/QĐ-BGD & ĐT – TCCB thành lập trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng trên cơ sở trường Kỹ Thuật Cao Thắng. Tháng 12 khởi công xây dựng đơn nguyên 1 tòa nhà 7 tầng lầu có tầng hầm. 
Trường Cao Đẳng Kỹ Thuật Cao Thắng ngày nay
Cổng Trường ngày nay

Tên Trường và Phương danh các Hiệu Trưởng

Năm
Tên Trường
Tên Hiệu Trưởng
1906-1939
ÉCOLE DES MÉCHANICIENS ASIATIQUES
Ông EMMANUEL ROSEL
Kỹ sư Công Nghệ
Đại tá Hải quân
1939-1942
ÉCOLE TECHNIQUE SPECIALE
Ông ALBERT SIMON
Kỹ sư Cơ Khí
Đại úy Hải quân
1942-1946
ÉCOLE TECHNIQUE SPECIALE
Ông YVES GERMAIN
Kỹ sư Cơ Khí
Đại úy Hải quân
1946-1950
COLLÈGE TECHNIQUE
Ông GÉRARD TABOUILLIOT
Kỹ sư Công Nghệ
1950-1952
COLLÈGE TECHNIQUE
Ông NGUYỄN CAO KHOAN
Kỹ sư Điện VIOLET
1952-1957
TRƯỜNG TRUNG HỌC KỸ THUẬT ĐỆ NHỊ CẤP CAO THẮNG
Ông ĐỖ VĂN TRÀ
Kỹ sư Điện I.K.G;
1957-1958
TRƯỜNG TRUNG HỌC KỸ THUẬT ĐỆ NHỊ CẤP CAO THẮNG
Ông NGUYỄN ĐĂNG HOÀNG
Kỹ sư Công chánh
1958-1961
TRƯỜNG TRUNG HỌC KỸ THUẬT CAO THẮNG
Ông PHẠM XUÂN ĐỘ
Giáo sư Thanh tra Học chính
1961-1964
TRƯỜNG TRUNG HỌC KỸ THUẬT CAO THẮNG
Ông CAO THANH ĐẢNH
KỸ sư E.N.S.M
1964-1965
TRƯỜNG TRUNG HỌC KỸ THUẬT CAO THẮNG
Ông NGUYỄN TẤN PHÁT
KỸ sư E.N.S.M
1965-1967
TRƯỜNG TRUNG HỌC KỸ THUẬT CAO THẮNG
Ông LÊ ĐÌNH VIỆN
Master of Education
1967 - 30/04/1975
TRƯỜNG TRUNG HỌC KỸ THUẬT CAO THẮNG
Ông NGUYỄN HỒNG LAM
Kỹ Sư Công Nghệ
30/04/1975 - 12/1980
TRƯỜNG TRUNG HỌC KỸ THUẬT CAO THẮNG
Ông TRẦN HỮU TÁM
Chuyên viên kỹ thuật
01/1981-06/1982
TRƯỜNG TRUNG HỌC KỸ THUẬT CAO THẮNG

07/1982 - 12/1988
TRƯỜNG KỸ THUẬT CAO THẮNG
Ông ĐINH VĂN MỘNG
Kỹ sư Cơ Khí
01/1989 - 09/2000
TRƯỜNG KỸ THUẬT CAO THẮNG
Ông VÕ HỒNG THÁI
Kỹ Sư Cơ Khí Ô Tô
10/2000 - 30/09/2004
TRƯỜNG KỸ THUẬT CAO THẮNG
Ông ĐÀO KHÁNH DƯ
Nghiên cứu sinh
01/10/2004 - đến nay
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KỸ THUẬT CAO THẮNG


Thứ Tư, 26 tháng 4, 2017

42 NĂM LÀM KINH TẾ
CỦA CÁC ĐỈNH CAO CHÁY RỤI
CHXHCNVN cương quyết làm theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh và chấp nhận một nền kinh tế tập trung theo lý thuyết của Marx cho đến 1990. Sau đó, khi khối cộng sản sụp đổ, lý thuyết Marx bị lung lay, nên đảng chuyễn từ kinh tế tập trung sang Kinh Tế thị Trường (KTTT) theo định hướng XHCN một sáng tác của các đỉnh cao trí tuệ cộng sản. Nhà nước chủ trương giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được thực hiện trong thực tế bằng việc thành lập hàng loạt các doanh nghiệp nhà nước lớn như các tập đoàn kinh tế nhà nước, các tổng công ty 90, tổng công ty 91. Tuy nhiên, hiện nay phần lớn các doanh nghiệp nhà nước lớn này hoạt động không đạt nhu cầu hoặc thua lỗ triền miên, dẫn tới việc cổ phần hóa các doanh nghiệp này.
Như chúng ta đã biết, một quốc gia có nền kinh tế có phát triển, nhà nước mới có tiền để chăm lo phúc lợi cho dân, từ đó dân mới có hạnh phúc và tăng niềm tin vào sự lãnh đạo của đảng cầm quyền. Thông thường, khi nhà nước có tiền thì dân chúng mới có những chính sách về giáo dục và y tế miển phí. VNCH trước năm 1975 tuy bị cộng sản Bắc Việt hàng ngày phá hoại, như giật sập cầu đường, đặt bom phá huỷ các đường thiết lộ, họ làm đũ trò như in tiền đô la gỉa..v...v.. nhằm làm tiêu hao nên kinh tế quốc dân của VNCH, mặc dù vậy, chính quyền VNCH vẩn có một nền giáo dục phổ cập miễn phí cũng như y tế để lo cho dân. Đây là điều mà các đỉnh cao chói lọi của cs tới nay vẩn không làm được. Nhưng họ thường tìm cách để phun nọc bôi tro trét trấu vào những giá trị xây dựng đất nước của VNCH.
Còn CHXHCNVN sau 42 năm làm kinh tế luôn bị thất thu vì số chi quá lớn, nợ ngày chồng chất, bên cạnh lại không có những chính sách thắt lưng buộc bụng, nên càng ngày càng lún sâu vào bế tắc như hiện nay . Nhà nước nợ như chúa chổm, ngân sách thiếu trước hụt sau từ năm này qua năm kia, muốn chi trả thì nhờ vào tiền kiều hối hoặc vay mượn. Trong khi đó các cơ sở công quyền các quan vẩn thi nhau hoang phí tiền thuế của nhân dân vào những chi tiêu phi lý làm hao tổn ngân sách quốc gia. Các tổng công ty do con cháu, bà con thân thích của các đầu lĩnh Ba Đình quản lý đều lổ trầm trọng như Vinashin, Vinalines, Tổng Công Ty Điện Lực (EVN), Tổng Cty Dầu khí...v..v.. Gần như không có một cơ sở kinh doanh nào của nhà nước mà không lỗ lã, bọn tham quan toàn báo cáo láo về mức lời và lổ. Đồng tiền CHXHCNVN năm nào cũng phá gía. Các chóp bu thì đua nhau đi công tác nườc ngoài bằng tiền công qủi. Cuối cùng đảng và nhà nước thiếu hụt ngân sách trầm trọng, dân phải gánh chịu hậu qủa. Cán bộ làm thiệt hại ngân qủi quốc gia nhưng không có tên nào bị lôi ra trừng trị, nền kinh tế ngày càng tụt hậu.đến sát đáy thung lủng. .
Đau buồn nhất là trên vùng cao và vùng hẻo lánh, học sinh đi học phải đi bằng cáp treo, hoặc những chiếc cầu bằng ván hư hỏng không tu bổ, nhiều nơi học sinh và cô giáo phải chui vào trong bao nylon để qua suối , qua sông đến trường...trong khi đó có nhiều địa phương dùng tiền thuế nhân dân để xây tượng đài ngàn tỷ và phung phí trong các dự án bị dừng lại giửa chừng, cầu cống, đường xá khi nghiệm thu thì không đũ tiêu chuẩn. Tất cã câu chuyện đau lòng đó được cô giáo Lam diễn tả như sau:
ĐẤT NƯỚC MÌNH NGỘ QUÁ PHẢI KHÔNG ANH ?
Đất nước mình ngộ quá phải không anh
Bốn ngàn tuổi mà dân không chịu lớn
Bốn ngàn tuổi mà vẫn còn bú mớm
Trước những bất công vẫn không biết kêu đòi...
Đất nước mình lạ quá phải không anh
Những chiếc bánh chưng vô cùng kì vĩ
Những dự án và tượng đài nghìn tỉ
Sinh mạng con người chỉ như cái móng tay...
Đất nước mình buồn quá phải không anh
Biển bạc, rừng xanh, cánh đồng lúa biếc
Rừng đã hết và biển thì đang chết
Những con thuyền nằm nhớ sóng khơi xa...
Đất nước mình thương quá phải không anh
Mỗi đứa trẻ sinh ra đã gánh nợ nần ông cha để lại
Di sản cho mai sau có gì để cháu con ta trang trải
Đứng trước năm châu mà không phải cúi đầu...
Đất nước mình rồi sẽ về đâu anh
Anh không biết em làm sao biết được
Câu hỏi gửi trời xanh, gửi người sau, người trước
Ai trả lời dùm đất nước sẽ về đâu...
TRẦN THỊ LAM
Trường PTTH Chuyên Hà Tĩnh.
CHXHCNVN MỘT NỀN KINH TẾ PHÁ SẢN
Chúng ta thử so sánh về mặt phát triển kinh tế của 10 quốc gia Á Châu vào thời điểm năm 1960, được xác nhận theo thứ tự trong bảng xếp GDP tính bằng Mỹ kim như sau

Singapore (395$), Malaysia (299$), Philippine (275$), Việt Nam Cộng Hòa (miền Nam 223$), South Korea (155), Thailand (101$), Trung quốc (92$), Ấn Độ (84$), Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (miền Bắc 73$).

Như vậy, VNCH (miền Nam VN) chỉ sau 5 năm xây dựng nền kinh tế quốc dân, đã ngang hàng với Phillipine, vượt qua South Korea, gấp 2 lần Thái Lan, gấp 2,4 lần Trung Cộng, gấp 2,7 lần Ấn Độ và gấp 3 lần VNDCCH (miền Bắc VN). Cũng như Đại Hàn và Nhật Bản, VNCH chỉ cần 20 năm đã nổi danh là “Hòn ngọc Viễn Đông”, cả về mặt kinh tế lẫn văn hóa giáo dục, mặc dù trong thời gian này, miền Nam luôn bị các lực lượng CS miền Bắc đánh phá. Thế mới thây VNCH trước đây không có các đỉnh cao để xây dựng nền kinh tế quốc dân như miền bắc cộng sản do hồ chí minh lãnh đạo.
Còn ngày nay tính tới thờì điểm 2017, sau 42 năm thống trị cả nước, với rừng vàng biển bạc nhưng bình quân đầu người của VN chỉ đạt được: 2.164 USD (hạng 134), đó là công bố chính thức của CHXHCNVN. Trong khi đó bình quân đầu người của một số các nước khác ở Đông Nam Á như sau:
Singapor: GDP bình quân đầu người cao nhất khu vực 52.841 USD

Nhật: GDP bình quân 40.090 USD
Nam Hàn:GDP bình quân 39.778 USD 
Brunei: GDP bình quân: 39.355 USD 
Malaysia: GDP bình quân: 12,127 USD
Phillipine:GDP bình quân: 8,224 USD
Ấn Độ: GDP Bình quân 7,224 USD
Lào: GDP bình quân :6,149 US
Thái Lan: GDP bình quân: 5.816 USD
Campuchia: GDP bình quân: 4,020 USD
Indonesia: GDP bình quân: 3.620 USD
(Nguồn Wikipedia)

Nhìn qua bình quân đầu người của các nước mới thấy được sự lãnh đạo của các đỉnh cao trí tuệ tuyệt vời của đảng cộng sản, CHXHCNVN ngày nay đã thua rất xa Lào và Campuchia, bình quân đầu người của VN cộng sản chỉ bằng 1/2 của Campuchia và 1/3 của Lào. Đây là một thành tích đáng thót mình nhất của phe thắng cuộc!!! Từ trên đỉnh cao, với tài ngạo mạn tự tôn đánh thắng 2 cường quốc hàng đầu thế giới, để rồi trở thành nước nghèo nhất trong khu vực, một thành tích mà các lãnh đạo vì dân vì nước của các quốc gia khác khó lòng mà đạt được.
Được biết từ năm 1961 cho tới năm 2016, trường Đại Học Kinh Tế Quốc Dân của CHXHCNVN đã đào tạo và cung cấp cho đất nước một hàng ngũ trí tuệ cho Kinh Tế với trên 140.000 người. Trong đó có Cử Nhân kinh tế Ma Dzê In Nguyễn Xuân Phúc. Bao gồm 55.639 sinh viên hệ chính quy, 52.194 sinh viên hệ tại chức, 11.244 sinh viên hệ văn bằng 2, 6.730 sinh viên hệ liên thông, 6.119 thạc sỹ, 879 tiến sỹ. Nhiều thế hệ cán bộ, giảng viên, cựu sinh viên các hệ đào tạo của nhà trường đã và đang giữ các cương vị chủ chốt trong các cơ quan của Đảng và Nhà nước từ Trung ương tới địa phương. http://alumni.neu.edu.vn/…/dh-kinh-te-quoc-dan-phan-dau-tro….
Với một hàng ngũ thông thái am tường về Kinh tế như vậy, đáng lý ra nền KT QD của VN phải ít ra hơn Thái Lan, Nam Dương,, Campuchia nhưng trái lại thua luôn nước đàn em do csVN đào tạo, là Campuchia. Xem ra các đỉnh cao trí tuệ của đám cướp cộng sản đã quá bất tài sau 42 năm điều hành đất nước.
Đến nay các đỉnh cao chói lọi của cộng sản đã đưa được CHXHCNVN lên vị trí một cường quốc về nợ công, cường quốc về dân oan, cường quốc về hèn, cường quốc về côn an, bạo lực học đường, về tham nhũng, về ung thư, cường quốc về trí thức có cử nhân, tiến sĩ, thạc sĩ ma, cường quốc về cấp tướng trong ngành công an và quân đội, và một cưòng quốc về nhân viên ăn bám của công....

BỘ MÁY HÀNH CHÁNH CỒNG KỀNH
Theo các số liệu chính thống, từ năm 2007 đến 2014, biên chế cán bộ, công chức từ cấp huyện trở lên (không kể công an, quân đội) tăng 14,43%, đạt 396.371 người, riêng khối cơ quan hành chính nhà nước tăng thêm 36.952 người với tỷ lệ 15,48%.
Cũng vào năm 2014 biên chế bộ máy chính quyền cấp xã là trên 1,2 triệu người, số viên chức 2.312.690 người, trong đó số do cơ quan nhà nước có thẩm quyền giao cho đơn vị sự nghiệp công lập tăng thêm 582.890 người, (chiếm tỷ lệ 39,11%).
Năm 2015 tổng số lao động làm việc trong khu vực hành chính sự nghiệp là 3.944.705 người (bao gồm 1.620.827 hoạt động trong khu vực đảng cộng sản, tổ chức chính trị xã hội, quản lý nhà nước và an ninh quốc phòng), trong đó trong các tổ chức nhà nước – 1.530.788 và các đơn vị sự nghiệp nhà nước 2.413.927 người.
Cách tuyển vào biên chế và sử dụng cán bộ, công chức và viên chức theo trình tự “hậu duệ, quan hệ, tiền tệ mới đến trí tuệ” hay “nhất thân, nhì ngân, tam quyền, tứ chế”, ăn đút lót, mua suất biên chế... đã làm bộ máy nhà nước suy yếu, sơ cứng, lãnh đạo suy thoái, biến chất
Tổng số người được hưởng lương từ ngân sách nhà nước hiện nay lên đến trên 11 triệu người.
http://www.bbc.com/…/06/160619_phamquytho_on_vn_state_sector
CHXHCNVN còn là một cường quốc về phó Thủ Tường, thứ trưởng, Vụ trưởng, Cục trưởng v..v..
Theo Cổng Thông tin Điện tử của Chính phủ Việt Nam hiện nay CHXHCNVN có 18 bộ và 04 cơ quan ngang bộ, với nhân sự cao cấp nhất gồm: 01 thủ tướng, 05 phó thủ tướng, 22 bộ trưởng và… 130 thứ trưởng, trong đó chỉ có một phó thủ thướng kiêm nhiệm chức bộ trưởng (ông Phạm Bình Minh), vị chi là 130+22+5+1-1=157 vị quan cấp cao nhất trong chính phủ...
Con số 130 vị thứ trưởng của 22 bộ ngành (18+4), trung bình gần 6 thứ trưởng trong mỗi bộ (trung bình là 5,9…), vì thế lại nổi lên là đặc trưng XHCN của hiện tượng… “lạm phát thứ trưởng” của VN “ta”, đang được dư luận rất quan tâm và lo lắng, và lo lắm… Ôi, thứ trưởng là cái cấp lãnh đạo gì trong chính phủ, nó quan trọng ra sao mà sao nay “tự nhiên’ nó lại phình to ra như bi bệnh phù thũng thế?

Cũng theo cổng Thông tin CPVN: 22 bộ ngành hiện nay của Việt Namtính tới tháng 9 năm 2014 - có tổng cộng 250 vụ và 330 cục, tổng cục, viện… tương đương vụ, tức tổng cộng VN đang có chính xác 580 Vụ trưởng/Cục trưởng. Đây là con số to khủng khiếp, vì như vậy 22 vị bộ trưởng phải quản trực tiếp 130 thứ trưởng và 580 Vụ trưởng cục trưởng, viện trưởng thuộc bộ… Vị chi là trung bình có (130+580):22 =32,27 kẻ thứ vụ trưởng dưới quyền trực tiếp mỗi một bộ trưởng! Con số này gấp trên ba lần số người mà một người có thể lãnh đạo hiệu quả là 09 người (từ 6 đến 12), chứng tỏ 22 bộ trưởng VN rất “thiên tài” “khua tay giữa đồng xanh”. Bên công an và quân đội thì lạm phát về tướng lãnh..
Việt nam là một nước nghèo, nợ công cao ở mức báo động, nhưng trong những năm gần đây chi thường xuyên trung bình khoảng 70% tổng ngân sách trong điều kiện thâm hụt, nguồn thu khó khăn, sụt giảm và tích lũy đầu tư cho phát triển với tỷ lệ thấp, dự kiến năm 2016 chỉ khoảng 17%…Mội đầu người phải mang giùm nợ cho nhà nước đầu người là 94,85 tỷ USD, nợ bình quân là 1.039 USD/người
Theo đánh giá của các chuyên gia, chỉ tính riêng cán bộ các hội đoàn thể, một bộ phận của hệ thống chính trị hiện hành, hàng năm tiêu tốn khoảng 45.600 - 68.100 tỷ đồng từ ngân sách.
Dân thì đầu tắt mặt tối đi làm đóng thuế để nuôi một đám ăn hại chỉ biết phá hoại đất nước, còn phải còng lưng nuôi một bộ máy đàn áp khổng lồ. Thật là một điều hết sức nghịch lý, vậy mà cứ im lặng chịu đựng ngày này qua ngày khác, không biết rồi đây sức chị đựng này đến bao giờ mới oằn?
VN CƯỜNG QUỐC VỀ THAM NHŨNG
Tham nhũng ở Việt Nam vừa tinh vi, vừa trắng trợn nhỏ ăn theo nhỏ lớn ăn theo lớn, từ hạ tầng lên tới thượng từng, nơi nào ăn được cứ ăn... không có nơi nào mà không có tham nhũng, những môi trường sống của quan tham là:
1.Trong lĩnh vực quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản,

2.Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng
3.Trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
4.Trong việc quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại các doanh nghiệp,
5.Trong công tác cán bộ, dư luận về tình trạng “chạy chức, chạy quyền, chạy công chức” vẫn còn nặng nề
6.Trong lĩnh vực tư pháp, hành vi tham nhũng chủ yếu là cán bộ tư pháp lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ 
7.Các ban ngành cảnh sát, trầm trọng nhất là CSGT.
8. Các cơ sở y tế, nhà thương các cấp
9. Trong lĩnh vực giáo dục....
Không có nơi nào mà mà không thấy quan tham.
Tình trạng tham nhũng ngày nay của VN được xếp vào hàng cuối bảng của các nước trên thế giới.
Thành quả của phe thắng cuộc sau 15 năm (1975-1990) thi hành chính sách Kinh tế tập trung theo lý thuyết Marx và 27( 1990-2017) năm theo Kinh tế Thị Trường nên hậu quả là hàng ngày, các đầu lĩnh phải nghĩ thêm cách làm sao tăng thuế, nghĩ những cách làm sao moi tiền và 500 tấn vàng trong dân, còn nước nào hạnh phúc hơn CHXHCNVN?? Một đảng cườp chuyên nghĩ cách để bóc từng lớp da trên người dân. Nhìn lại các nước khác như Nhật và Đức, là các quốc gia bị sụp đổ KT sau thế chiến thứ hai, nhưng chỉ sau 20 năm tái thiết lại , họ đã vực dậy được nền kinh tế quốc dân, rồi 20 năm kế tiếp họ sánh vai được với các cường quốc kinh tế khác, ngày nay Đức và Nhật là những quốc gia có nền kinh tế nằm trong 20 nước đứng đầu thế giới. Trong 20 quốc gia đó đều không có các đỉnh cao trí tuệ như CHXHCNVN. Bản chất của cộng sản từ đông sang tây từ âu sang á đều giống nhau một cái bệnh báo cáo láo, lãnh lương và tiền đen thì thật phong phú!!

Căn bệnh làm ung thối đất nước phá hoại tan nát nền KTQD đó là bệnh tham nhủng đã là một trong những nguyên nhân lớn làm thất thoát ngân sách quốc gia, đưa đến nợ công ngày càng phình to ra. Mượn bài thơ của thi sĩ Đăng Tuyền để làm lời kết cho bài viết này:
Quan Tham Chống Quan Tham
Thế gian lắm chuyện để cười
Ông trùm tham nhũng là người chống tham
Diễn đàn ông ghế trưởng ban
Vung tay quá trán đập quan ăn tiền
Còn ông đặc cách nghiễm nhiên
Ưu tú xếp loại quan liêm đương thời 
Tự nhiên ông có chiếu trời 
Ban cho bảo kiếm trị người quan tham
Rộng đường ông quét, ông càn 
Vét vơ đầy túi bạc gian về mình 
Việc làm ra vẻ nghiêm minh 
Dối trên lừa dưới chẳng tình nghĩa chi 
Nhà đất tài chính tinh vi
Tham nhũng chính trị khác gì ung thư
Cháu con đầu đất đại ngu
Văn bằng chắp vá tù mù chợ đen
Khác chi nước thải đánh phèn 
Tuy trong mùi nặng ố hoen bụi trần 
Thế rồi đem đặt bàn cân
Dán tem chất lượng có phần đã quen
Nổi chìm tiêu chuẩn bon chen
Xếp vào thay ghế quan liêm "yếu già" 
Tiêu cực chống mãi chẳng qua 
Đèn cù quanh quẩn vẫn là quan tham

Bichthuy Ly 26.4.2017