Thứ Ba, 29 tháng 12, 2015

QUÂN CẢNH VNCH

Là một đơn vị của Quân Lực VNCH, với quân số trên 10.000 người, khởi đầu thành lập từ năm 1948, từ đó lớn dần theo sự phát triển chung đến ngày 1 tháng 10 năm 1960, các đơn vị Quân Cảnh thống nhất thành một đại đơn vị với danh xưng là Quân Cảnh Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa, nhiệm vụ chính là duy trì quân phong, quân kỷ của quân đội. Quân Cảnh hiện diện khắp nơi (tại các Sư Đoàn Bộ Binh, Không Quân, Hải Quân, Thủy Quân Lục Chiến, Nhảy Dù…), ngoài ra  còn có những đơn vị Quân Cảnh chuyên về điều tra tư pháp, an ninh trật tự lãnh thổ và  quản lý tù binh cộng sản….

Quân Cảnh Hành Khúc

NGƯỜI QUÂN CẢNH CUỐI CÙNG CHẾT TẠI BỘ TỔNG THAM MƯU-TỰ SÁT DƯỚI CHÂN CỜ 


Theo lời kể của Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp, San Jose. Bài viết được trích từ Tự Do Ngôn Luận:

Câu chuyện vào giờ thứ 25 của ngày 30 tháng 4-1975, có một hạ sĩ quan Quân Cảnh của đại đội 1 tại Tổng Tham Mưu đã tự sát dưới chân cột cờ trước tòa lầu chính. Một Quân Cảnh còn sống đến hôm nay đó là hạ sĩ quan Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp,  trên đường từ Dục Mỹ về Sài Gòn cho đến ngày cuối tại Bộ Tổng Tham Mưu.

Vào khoảng 8 giờ sáng, ngày 29 tháng 3-1975, tôi với một vài người bạn ra chợ Dục Mỹ để uống cà phê và cũng để nghe ngóng tình hình chiến sự. Tin tức từ những quân nhân hướng Khánh Dương chạy về cho biết là tuyến phòng tuyến này do các chiến sĩ Nhảy Dù ngăn chận Cộng quân đã đổ vỡ.
Chúng tôi lập tức trở về TTHL Dục Mỹ thì quang cảnh quân trường đã thay đổi hẳn. Các khóa sinh và cơ hữu của trung tâm ra các giao thông hào trong tư thế sẵn sàng tác chiến. Biến động này làm cho nhóm 17 khóa sinh gốc Quân Cảnh chúng tôi lại thêm hoang mang. Số là nhóm chúng tôi đã thụ huấn xong khóa cuối Rừng Núi Sình Lầy và có danh sách được trở về binh chủng Quân Cảnh. Khóa học đã mãn hơn 10 ngày rồi mà chưa có Sự Vụ Lệnh để trình diện đơn vị.

Chúng tôi cử một đại diện có cấp bậc cao nhất trong nhóm là thượng sĩ lên trình diện Đại Tá CHT/TTHL Dục Mỹ sau khi đã qua các văn phòng theo hệ thống quân giai. Đại Tá Đại rất bận rộn nhưng ông vẫn cho gặp. Ông ngạc nhiên về trường hợp chậm trễ. Tuy nhiên sau cùng, ông lục ở ngăn kéo nơi làm việc tìm ra được Sự Vụ Lệnh mà ông đã ký rồi và đưa ra trao cho trưởng toán chúng tôi.

Khi nhận được Sự Vụ Lệnh thì Quân Trường Dục Mỹ không thể cung cấp phương tiện đến Nha Trang. Chúng tôi đành tự túc mạnh ai nấy đi. Đến chiều khoảng 1 giờ, chúng tôi gặp nhau tại ở Nha Trang với hy vọng tìm được máy bay về Sài Gòn. Tôi và vài bạn nữa đi ngang qua Bộ Tư Lệnh QĐ II thì lá cờ tướng đã hạ xuống, Quân Cảnh gác cổng không còn. Đi qua Bộ Chỉ Huy BĐQ QK II thì cũng vườn hoang nhà trống. Súng M16 cả đống nên mỗi anh em nhặt một cây để phòng thân.

Không có phương tiện của quân đội nên chúng tôi mạnh ai nấy đi bằng cách đổ ra ngã Ba Thành và leo xe nhà binh tìm đường xuôi Nam. Lúc bấy giờ có Quân Cảnh Hiệp, người lớn tuổi hơn tôi nên bạn bè gọi là Hiệp Già. Anh có một vợ 5 con, đơn vị gốc là Tiểu đoàn 8 Quân Cảnh, cùng học chung với tôi mấy khóa ở Trường Quân Cảnh và Trường HSQ Đồng Đế.
Suốt đêm hôm đó và đến khoảng 3 giờ chiều hôm sau, đoàn xe di tản đến thị xã Phan Thiết. Khi xe ra khỏi Phan Thiết một đỗi chúng tôi gặp một số quân nhân chạy ngược lại, được biết Việt cộng phục kích và có giao tranh ở ngã ba Bình Tuy (Rừng Lá).

Tin này làm chúng tôi chùn chân vì tôi biết chắc với đám quân không có chỉ huy nếu gặp Việt Cộng thì chỉ có chết. Sở dĩ tôi nghĩ như thế là vì suốt từ nhiều ngày qua đã có lúc giành mấy củ khoai ở cổng Ba Làng Cam Ranh mà bắn nhau chết. Thị xã Phan Thiết đang yên lành thì bị cướp, bị phá cửa sắt lấy bia, nước đá, thực phẩm tạo ra sự giành giựt rồi giết nhau. Điều này ai có đi khoảng thời gian đó đều biết. Với máu Quân Cảnh trong người, tôi rất bất mãn nhưng không thể làm gì được.

Sau cùng, tôi bàn với anh Hiệp già là nên trở lại Phan Thiết tìm ghe hoặc tàu bè về Vũng Tàu chắc ăn hơn. Anh Hiệp không đồng ý nên chúng tôi chia tay.

Sau cùng tôi cũng tìm đường thủy về Sài Gòn qua ngã Vũng Tàu. Trình diện ở trại đường Tô Hiến Thành xong, được lệnh trả tôi về binh chủng. Tôi bắt thăm trúng được Tiểu Đoàn 5 Quân Cảnh. Nỗi vui mừng thật lớn, coi như thoát được nạn trong mấy ngày vừa qua. Hơn sáu năm đi lính, lần đầu tiên bắt thăm được trúng đơn vị ở gần nhà. Biết bao là mừng vui. Tại Ban Nhân Viên Tiểu Đoàn tôi được lệnh tăng phái cho Đại Đội 1 Quân Cảnh tại Bộ TTM. Thật tình mà nói, tôi chỉ được nghe tên vị Tiểu Đoàn Trưởng là Thiếu tá Hưng hay Trung Tá Hưng (không rõ), còn các Đại Đội Trưởng và Trung Đội Trưởng của tôi tôi chưa kịp gặp mặt, hoàn toàn không biết là ai. Cứ nhận lệnh đi tăng phái đã.

Tôi không nhớ chính xác bao nhiêu quân nhân từ Tiểu Đoàn 5 Quân Cảnh tới tăng cường cho Đại Đội 1 Quân Cảnh, hình như khoảng 15 anh em gì đó. Nhiệm vụ chúng tôi đứng các nút chặn ngã ba Chú Ía, ngã tư Võ Di Nguy Võ Tánh, Võ Tánh gần Bệnh Viện III Dã Chiến Hoa Kỳ, và Võ Tánh gần ngã ba Trương Quốc Dung.

Có một ngày, vào khoảng 15 tháng 4-1975, tôi gặp lại một bạn Quân Cảnh cùng chạy ở Dục Mỹ hỏi thăm anh Hiệp Già và được biết anh bị một viên đạn bắn sẻ của Việt Cộng trúng ngay giữa tam tinh gần ngã ba Rừng Lá. Tôi bần thần về tin này cả tuần.

Trong thời gian tăng phái cho TTM, ngày đứng đường, đêm về các điểm phòng thủ trong Tổng Tham Mưu. Có một đêm tôi nằm dưới thềm Tổng Cục Tiếp Vận coi TV thấy Tổng thống Thiệu đọc diễn văn chửi Mỹ. Mắt coi TV, tai nghe đạn pháo kích lòng dạ sao xuyến tan nát. Cường độ pháo của cộng quân càng tăng. Trước 3 trái thì 2 trái vô Tân Sơn Nhất còn trái vô TTM. Sau 2 trái thì 1 trái vô Tân Sơn Nhất và 1 trái vô TTM. Nghe quen, tôi cũng bắt chước số anh em khác mà đoán tầm gần xa, lúc nào sắp nổ. Tôi vẫn ở TTM nhưng phạm vi hoạt động rút lại gần hơn và chịu pháo nhiều hơn.

Trong thời gian này, bên gia đình vợ tôi có đường chạy ra ngoại quốc. Nếu muốn đi thì chắc chắn chúng tôi sẽ ra đi bình yên. Tôi là hạ sĩ quan với sắc phục Quân Cảnh. Đi đâu cũng gặp toàn bạn bè cùng binh chủng. Không những đi dễ dàng mà còn lo cho được cả gia đình họ hàng. Nhưng không biết tại sao vào những giây phút đó tôi lại thấy mình yêu nước. Bỏ đi không đành. Đó là tấm lòng thành thực, nghĩ sao thì nói vậy. Sau này vợ tôi cứ nói mãi về vụ di tản. Bây giờ bả không còn nữa nhưng tôi vẫn còn nghe như tiếng nói than thở bên tai.
Sáng ngày 30 tháng 4-1975:

Tôi được lệnh tăng cường cho cổng 1 TTM. Lúc bấy giờ cộng quân gia tăng cường độ pháo kích dữ dội. Các Quân Cảnh cơ hữu của Đại Đội 1 Quân Cảnh rất bận rộn. Có tin cổng 4 có một số sĩ quan TTM phá rào chui ra đến nỗi Quân Cảnh Đại Đội 1 TTM phải dùng hàng rào người mà cản lại. Cũng có một số sĩ quan cấp Trung và Đại Tá tự ký Sự Vụ Lệnh ra cổng. Chưa đến nỗi hỗn loạn nhưng Quân Cảnh khá mệt nhọc vất vả mới giữa được trật tự.

Lệnh Tướng Hạnh là nội bất xuất, ngoại bất nhập. Chúng tôi thì chỉ có nhiệm vụ yểm trợ cho Đại Đội 1 Quân Cảnh mà thôi. Tôi quan sát tại điếm canh cổng số 1 có anh Quân Cảnh làm việc thật tích cực và hiệu quả. Nhìn kỹ ra là anh Minh người cao lớn. Tôi thật tình quên mất họ của Minh là Trần hay Nguyễn. Nhưng có thể là Trần Văn Minh (?). Minh cùng chung một khóa với tôi ở Trường HSQ Đồng Đế. Đó là khóa 1/71 Đặc Biệt HSQ hiện dịch, lúc đó tướng Linh Quang Viên làm Chỉ Huy Trưởng. Sau đó chúng tôi gặp lại nhau tại Trường Quân Cảnh một hai lần nữa. Giờ đây, rõ ràng là Minh đang ở Đại Đội 1 Quân Cảnh TM. Giơ tay chào nhau, nói vài câu, rồi ai làm việc nấy. Lúc đó tôi ở cổng chánh khoảng 100 mét về hướng tòa nhà chánh.

11 giờ 30 ngày 30 tháng 4-1975:

Lúc 11 giờ 30, từ cổng 1 TTM tôi nghe súng nổ dữ dội ở phía Bệnh Viện Dã Chiến Hoa Kỳ, thì ra các anh em LĐ 81 BCND đang bắn xe tăng Việt cộng. Khi chiếc xe T54 của Việt cộng có treo cờ GPMN hướng về cổng 1 TTM thì tất cả chúng tôi lái xe Jeep rút về văn phòng Đại Đội 1 Quân Cảnh vì xe cộ đồ đạc tất cả đều để đây. Khi xe ngừng, Minh bước xuống và nước mắt đã đầm đìa. Tôi nhìn Minh mà lo cho thân mình nên vội vàng cột ba lô mang súng ống, rồ xe Mobylette phóng chạy. Cái cảnh lúc đó thật là hoảng loạn, mạnh ai nấy lo, giành đường thoát ra.

11 giờ 40 ngày 30 tháng 4-1975:

Sau lưng tôi, Minh khóc và nói một mình “Thôi rồi, mất nước rồi.” Nói xong anh Minh bước tới gần cột cờ, nghiêm chỉnh đưa tay lên, chào xong móc khẩu Colt 45 bên hông kê lên màng tang. Một tiếng nổ đơn độc vang lên. Tôi chắc tiếng nổ đó đã hòa tan trong tiếng máy của hàng trăm chiếc xe Honda, Vespa, Suzuki. Minh ngã xuống. Trung sĩ I Trần Văn Minh đã trả xong nợ nước vào giờ thứ hai mươi lăm. Tôi là một người sợ chết nên nhìn Minh một lần chót, nén xúc động và chạy thoát thân với hàng đoàn người kia.

Giờ đây Minh họ Nguyễn hay Trần tôi không biết chắc. Anh đã chết thật hay chỉ bị thương cũng không biết chắc. Có điều Minh đã làm một việc thật là đáng để tôi quỳ xuống mà lạy anh. Tất cả các đoạn trên tôi viết dông dài chỉ nhằm mục đích kể lại đoạn cuối về cái chết của một Quân Cảnh tại Bộ Tổng Tham Mưu. Chúng tôi là binh chủng lo về quân kỷ của quân đội. Xin các anh em chiến hữu hiểu rằng chúng tôi cũng sống chết với quân đội như anh em. Và trong hàng ngũ hạ sĩ quan chúng tôi cũng có người tự vẫn dưới ngọn cờ Tổng Tham Mưu vào giờ thứ 25.
Gần 30 năm qua, ngồi cố nhớ mà viết lại chắc có nhiều chi tiết thiếu sót, ước mong các chiến hữu bổ khuyết dùm cho.

(Quân Cảnh Huỳnh Hồng Hiệp, San Jose)









NHỮNG QUÂN CẢNH TỰ SÁT TRONG NGÀY 30.4.1975

Gồm có 7 chiến hữu Quân Cảnh đã tự sát trong ngày 30 tháng 4 năm 1975, gồm có Đại Úy Nguyễn Hòa Đường; Trung Úy Trần Văn Kính tại trường Quân Cảnh Vũng Tàu đã tự sát ngay tại cột cờ của trường Quân Cảnh trong khi cộng sản tiến vào chiếm trường ngày 30 tháng 4 năm 1975; Thượng Sĩ Trần Chánh Tạo tự sát trước cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu khi Việt Cộng tiến vào Bộ Tổng Tham Mưu; Thượng Sĩ Huỳnh Văn Lẹ tự sát ngày 30 tháng 4 năm 75 tại Tiểu Đội Quân Cảnh Ban Mê Thuột; Trung Sĩ Nhất Nguyễn Văn Đông thuộc Tiểu Đoàn 6 Quân Cảnh tự sát tại phòng hành quân Biệt Khu Thủ Đô khi Việt Cộng tiến vào văn phòng; Trung Sĩ Nhất Hòa thuộc Tiểu Đoàn 3 Quân Cảnh tự sát bằng lưu đạn tại đồn Quân Cảnh Bình Dương; Trung Sĩ Nhất Trần Văn Minh thuộc Đại Đội I Quân Cảnh tự sát khi đang thi hành công tác trước cổng chính Bộ Tổng Tham Mưu.http://viendongdaily.com/quan-canh-khong-la-kieng-LK8HQ5JR.html


CON CHIM RỜI ĐÀN

Cựu Thiếu Tá Trương Văn Cao

Sinh Ngày  13 Tháng 9, Năm 1941;Tại Làng Tường Lộc, Quận Tâm Bình, Vĩnh Long.

Tiểu Sử:

11/1963, tốt nghiệp K18 Võ Bị Quốc Gia Việt Nam, chọn Binh chủng Quân Cảnh. Đơn vị đầu đời: Ban Quân Cảnh Quân Đoàn II, Pleiku.

Tốt nghiệp Khóa Căn Bản Quân Cảnh tại Trường Quân Cảnh Vũng Tàu.

1965, tốt nghiệp Khóa Criminal Investigation Course, Hoa Kỳ. Về nước, Trung úy Đại Đội trưởng Đại Đội A2 QC kiêm Trưởng đồn QC Pleiku.

1966, Chỉ Huy Trưởng Trại giam Tù binh Cộng sản Việt Nam, Pleiku.

1968, Đại Úy Tiểu Đoàn Trưởng TĐ11QC kiêm Trưởng Đồn QC Nha Trang.

1971, Dự trù theo học Trường Quân Cảnh Cao Cấp tại Hoa Kỳ, vì nhu cầu công vụ, thuyên chuyển ra Phú Quốc, giữ chức vụ Tiểu Đoàn Trưởng Tiểu Đoàn 9 Quân Cảnh.

1972, Thiếu Tá Chỉ Huy Trưởng Trại giam Tù binh Cộng sản, Pleiku.

1973, Sau Hiệp Định Paris, Đại diện QC trao trả tù binh tại Thạch Hãn, Bồng Sơn, Thiện Ngôn.

Khi Tân Cảnh thất thủ, Cơ sở Trại Giam Pleiku được tạm dùng để cho đồng bào di tản từ Tân Cảnh về tạm trú. Nhân viên trại giam và tù binh tạm thời di chuyển về Trại Phú Tài, Qui Nhơn. Khi đồng bào Thượng đã có chỗ ở ổn định, Ban chỉ huy và tù binh cộng sản về lại Trại giam Pleiku.

Ngày 17 tháng 3 năm 1975, theo QĐII di tản về Nha Trang theo Tỉnh lộ 7B.

Ngày 29 tháng 3/1975, được bổ nhiệm Quân Trấn Trưởng Nha Trang (vì đã rời Binh chủng QC, nên trực thuộc quân số QĐII).

30/3/75, QĐII di tản về Phan Rang sau đó về Sai Gòn, Thiếu Tá Cao trở về Binh chủng QC, đảm nhận trách vụ Sĩ quan An ninh của Tiểu Đoàn 6 QC Biệt Khu Thủ Đô,

29/04/75, Thiếu Tướng Lâm Văn Phát, tân Tư Lệnh Biệt Khu Thủ Đô chỉ định Thiếu tá Cao vào chức vụ Chỉ Huy Trưởng QC Đặc Khu SàiGòn ChợLớn vào giờ thứ 25, vì sau đó ông Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng.

30/04/1975, đến Hồng Kông bằng tàu Trường Xuân. Đến El Paso, Mỹ tháng 11/1975 và đến Houston tháng 06/1976 cho đến nay.

Điểm đáng ghi nhận:

QC Trương Văn Cao đã nhiều lần phục vụ tại Pleiku từ Thiếu Úy cho đến Thiếu Tá, từ năm 1963 cho đến ngày QĐII di tản về duyên hải tháng 3/1975.
Vì gắn bó với Pleiku như vậy, cho nên QC Trương Văn Cao trở thành người dân bản xứ và mang thêm một họ thông dụng của người bản xứ, là họ Y. Thiếu tá QC Trương Văn Cao có tên người dân tộc thiểu số là Y Cao.

Chắc quý đồng hương còn nhớ vị Tỉnh Trưởng Pleiku người dân tộc thiểu số vào thập niên 60, ông tên là Y YaBa.  Ông Tỉnh trưởng Y YaBa có tên Việt Nam là Trương Sơn Bá. Từ ngày lưu lạc, Y Cao vẫn giữ lập trường quốc gia dân tộc bằng cách thường xuyên sinh hoạt trong Cộng Đồng Người Việt Quốc Gia tại địa phương và trong các Hội Đoàn Quân Đội.

Nguyên là Tổng Hội Trưởng Tổng Hội Quân Cảnh QLVNCH tại Hải Ngoại.
Hội Trưởng Hội Quân Cảnh VNCH tại Houston Texas.  Y Cao cũng là Cố Vấn của Hội Ái Hữu Phố Núi Pleiku. Đại Sứ và Cố Vấn công trình xây dựng tượng đài tổ Quốc ghi ơn thuộc Hệ Thống Chùa Tầm Nguyên - Làng A Di Đà, Conroe Texas.
Sau một thời gian bạo bệnh Thiếu Tá Trương Văn Cao, aka Y Cao đã từ trần vào lúc 7:41 phút tối thứ Tư ngày 16 tháng 9, 2015 tại bệnh viện Hermann Memorial South West, hưởng thọ 77 tuổi.  Ông đã  đóng góp hết 40 năm của cuộc đời còn lại, sau ngày gãy súng 30/4/1975 vào công cuộc bảo vệ chính nghĩa tại hải ngoại.”



Một số hình ảnh về sự thật của trại tù Phú quốc quý vị có thể vào trang web của Tổng Hội Quân Cảnh QL.VNCH để xem tiếp:  http://www.tonghoiquancanh.net/hinh-anh-trai-tu-phu-quoc-1973/

Trịnh Khánh Tuấn-tổng hợp 29/12/2015

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét