BÁNH GIẦY
Bánh chưng bánh giầy là hai loại bánh xuất hiện từ lâu trong phạm trù ẫm thực của nước ta, nó gói ghém được một triết lý rất nhân văn của Việt tộc trong sinh hoạt ngày Tết nguyên đán. Trước khi đi vào vấn đề, chúng ta nghiên cứu về từ "Chưng" trong bánh chưng, chúng ta thường thấy nói nhiều và rất phổ biến, cho rằng từ gốc của nó là chưng (蒸) trong tiếng Hán-Việt, có nghĩa là chưng hay hấp cách thủy.
Học giả Nguyễn Nhã, Trưởng nhóm Nghiên Cứu Văn Hóa Ẩm thực Việt Nam, nói một cách thận trọng “Có lẽ vì cách chế biến bằng chưng, nên mới có cách gọi là bánh chưng”, nhưng một ngưòi khác tên An Chi thì quả quyết: tên chính xác của (bánh chưng) là bánh chưng. Chưng là âm Hán-Việt hiện đại của chữ 烝, cũng viết 蒸,theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh là “đun, nấu cách thủy”. Đào Duy Anh đã có lý. Vương Lực cổ Hán ngữ tự điển (Bắc Kinh, 2002) cho biết chữ chưng có 9 nghĩa,nghĩa thứ hai là “dụng hoả hồng khảo” tức “dùng lửa mà nung, sấy” (!). Sự bổ xung cho nhau về nghĩa của từ chưng, hồng, khảo cho thấy chữ chưng trong bánh chưng được dùng rất phổ biến bởi bánh chưng là bánh được luộc.
Nếu chỉ xét theo nghĩa thông dụng hiện đại của chữ chưng thì sẽ không thấy được tính hợp lý của việc đặt tên cho bánh chưng. Nhưng nếu đi vào lịch sử ngữ nghĩa của nó thì mới thấy việc đặt tên này đã bắt đầu từ rất lâu đời, khi mà chữ này chưa mất đi cái nghĩa “dụng hoả hồng khảo”. http://vanhoanghean.com.vn/PDF/PL2D.pdf
Học giả Nguyễn Nhã, Trưởng nhóm Nghiên Cứu Văn Hóa Ẩm thực Việt Nam, nói một cách thận trọng “Có lẽ vì cách chế biến bằng chưng, nên mới có cách gọi là bánh chưng”, nhưng một ngưòi khác tên An Chi thì quả quyết: tên chính xác của (bánh chưng) là bánh chưng. Chưng là âm Hán-Việt hiện đại của chữ 烝, cũng viết 蒸,theo Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh là “đun, nấu cách thủy”. Đào Duy Anh đã có lý. Vương Lực cổ Hán ngữ tự điển (Bắc Kinh, 2002) cho biết chữ chưng có 9 nghĩa,nghĩa thứ hai là “dụng hoả hồng khảo” tức “dùng lửa mà nung, sấy” (!). Sự bổ xung cho nhau về nghĩa của từ chưng, hồng, khảo cho thấy chữ chưng trong bánh chưng được dùng rất phổ biến bởi bánh chưng là bánh được luộc.
Nếu chỉ xét theo nghĩa thông dụng hiện đại của chữ chưng thì sẽ không thấy được tính hợp lý của việc đặt tên cho bánh chưng. Nhưng nếu đi vào lịch sử ngữ nghĩa của nó thì mới thấy việc đặt tên này đã bắt đầu từ rất lâu đời, khi mà chữ này chưa mất đi cái nghĩa “dụng hoả hồng khảo”. http://vanhoanghean.com.vn/PDF/PL2D.pdf
Trong vài địa phương ở miền bắc có nơi vẩn còn viết là bánh trưng, thay vi bánh chưng, nhưng chúng tôi tôn trọng chử bánh chưng theo nhận định riêng của chúng tôi. Có người lại giải thích như sau: được biết thì có 2 loại bánh: bánh chưng và bánh trưng bánh trưng là tên gọi tắt của bánh trưng tày (bánh này vốn của người tày), về nguyên liệu và cách làm thì cũng giống bánh chưng nhưng bánh trưng tày được gói theo kiểu bánh tét trong miên nam. tôi nghĩ bánh chưng hay bánh trưng tày thì cũng đều là thứ bánh ăn ngày tết , cũng từ gạo nếp , đậu xanh thịt heo mà ra nên cái nào cũng chuẩn cả. Để thống nhất chúng tôi chọn cách viết và cách gọi bánh chưng cho bài viết nầy.
Ngày ấy cùng mẹ xuống thăm anh
Đứa con học tập mặt ốm xanh
Trông anh thật tội - làm sao nói
Nước mắt lưng tròng - em lau nhanh
Ngồi bên em gái anh cười nhẹ
Mùa xuân mẹ gói bánh chưng xanh
Run run vuốt má thằng con " ngụy "
Nó tội tình chi - hỡi chiến tranh ?
Trại xưa Hương Mỹ còn hay mất
Mộ cỏ anh tôi mới trưởng thành.
Tiếc thương người anh đã mất -
( Bài thơ "Nhớ Trại Cải Tạo Hương Mỹ" của lua9mientay)
Đứa con học tập mặt ốm xanh
Trông anh thật tội - làm sao nói
Nước mắt lưng tròng - em lau nhanh
Ngồi bên em gái anh cười nhẹ
Mùa xuân mẹ gói bánh chưng xanh
Run run vuốt má thằng con " ngụy "
Nó tội tình chi - hỡi chiến tranh ?
Trại xưa Hương Mỹ còn hay mất
Mộ cỏ anh tôi mới trưởng thành.
Tiếc thương người anh đã mất -
( Bài thơ "Nhớ Trại Cải Tạo Hương Mỹ" của lua9mientay)
Bánh chưng, bánh giầy là những loại bánh truyền thống của dân tộc Việt nhằm thể hiện lòng biết ơn của con cháu đối với cha ông và đất trời xứ sở, được làm vào các dịp Tết cổ truyền của dân tộc Việt, cũng như ngày giổ tổ Hùng Vương (mùng 10 tháng 3 âm lịch). Là loại bánh duy nhất có lịch sử lâu đời trong ẩm thực truyền thống Việt Nam còn được sử sách nhắc lại, bánh chưng có vị trí đặc biệt trong tâm thức của cộng đồng người Việt và nguồn gốc của nó về truyền thuyết liên quan đến hoàng tử Lang Liêu vào đời vua Hùng thứ 6. Sự tích trên muốn nhắc nhở con cháu về truyền thống của dân tộc; là lời giải thích ý nghĩa cũng như nguồn cội của của Bánh Chưng, Bánh Giầy trong văn hóa, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của cây lúa và thiên nhiên trong nền văn hoá lúa nước.
Một số vùng, trong đó có Phú Thọ - vùng trung du đất Tổ của các vua Hùng, không thịnh hành gói bánh chưng hình vuông mà gói dạng tròn dài, gọi là "bánh chưng dài", hay "bánh tày". Bánh tày còn là loại bánh Tết ở Kinh Bắc và tại nhiều vùng dân tộc thiểu số miền
Nếu như mỗi dịp Tết đến, người Kinh thường gói bánh chưng hình vuông
thì người Tày lại gói bánh chưng dài hay còn gọi là bánh tày.
Bánh chưng đen của người Thái
GÓI BÁNH CHƯNG:
1.Cách gói tay không thông thường như sau:
Rải lạt xuống mâm tròn tạo hình chữ thập
Đặt 2 chiếc lá dong lên trên lạt, nằm chồng 1/2 theo chiều dài lá lên nhau, chú ý phải quay mặt trên của 2 lá ra phía ngoài và mặt kém xanh hơn (mặt dưới) vào trong. Lượt sau: 2 lá rải như lượt đầu nhưng vuông góc với lượt đầu, chú ý là lần này lại phải làm ngược lại, quay mặt trên lá (xanh hơn) lên trên, mặt kém xanh hơn, úp xuống dưới.
Gạo nếp, xúc 1 bát đầy đổ vào tâm của hình chữ thập, dùng tay gạt đều, tạo hình vuông mỗi cạnh 20 cm,
Lấy 1 nắm đỗ xanh bóp nhẹ và rải đều vào giữa vuông gạo đến gần hết bìa gạo
Thịt lợn, lấy 1, 2 miếng tùy cỡ đã thái rải đều vào giữa bánh
Lấy tiếp 1 nắm đỗ xanh nữa bóp nhẹ rải đều phủ lên trên thịt
Xúc 1 bát gạo nếp đổ lên trên và phủ khỏa đều, che kín hết thịt và đỗ
Gấp đồng thời 2 lá dong lớp trên vào, vừa gấp vừa vỗ nhẹ để tạo hình khối vuông
Gấp tiếp đồng thời 2 lá dong lớp dưới vào như lớp trên, vừa gấp vừa lèn chặt nhẹ tay
Dùng lạt buộc xoắn lại tạo thành hình chữ thập
2 bánh chưng buộc úp vào nhau thành một cặp
2.Gói bánh chưng vuông dùng khuôn
Gói theo khuôn hình vuông khoảng 20 cm x 20 cm x 7 cm sẵn có. Khuôn thường làm bằng gỗ.
Với cách gói có khuôn các giai đoạn cũng được tiến hành như trên. Tuy nhiên, người ta cắt tỉa bớt lá dong cho gọn (vừa kích thước khuôn) và đặt trước các lớp lá xen kẽ nhau vào trong khuôn (3 hoặc 4 lá, nếu gói 4 lá bánh sẽ vuông đẹp hơn. Khi đó thường thì 2 lá xanh quay ra ngoài xếp tại 2 góc đối xứng nhau, và 2 lá xanh quay vào trong để tạo màu cho bánh). Sau khi đã cho nhân vào trong, các lớp lá lần lượt được gấp lại và sau đó được buộc lạt.
Cách gói bánh có khuôn thì bánh đều nhau hơn và chặt hơn do được vỗ đều gạo, nén chặt, còn gói không khuôn thì bánh được gói nhanh hơn do đỡ mất công đo cắt lá theo kích thước khuôn. Bánh được gói không khuôn thì mặt trên lá được quay ra ngoài, còn với bánh có khuôn thì mặt dưới lá lại được quay ra ngoài.
LUỘC BÁNH
Rải lạt xuống mâm tròn tạo hình chữ thập
Đặt 2 chiếc lá dong lên trên lạt, nằm chồng 1/2 theo chiều dài lá lên nhau, chú ý phải quay mặt trên của 2 lá ra phía ngoài và mặt kém xanh hơn (mặt dưới) vào trong. Lượt sau: 2 lá rải như lượt đầu nhưng vuông góc với lượt đầu, chú ý là lần này lại phải làm ngược lại, quay mặt trên lá (xanh hơn) lên trên, mặt kém xanh hơn, úp xuống dưới.
Gạo nếp, xúc 1 bát đầy đổ vào tâm của hình chữ thập, dùng tay gạt đều, tạo hình vuông mỗi cạnh 20 cm,
Lấy 1 nắm đỗ xanh bóp nhẹ và rải đều vào giữa vuông gạo đến gần hết bìa gạo
Thịt lợn, lấy 1, 2 miếng tùy cỡ đã thái rải đều vào giữa bánh
Lấy tiếp 1 nắm đỗ xanh nữa bóp nhẹ rải đều phủ lên trên thịt
Xúc 1 bát gạo nếp đổ lên trên và phủ khỏa đều, che kín hết thịt và đỗ
Gấp đồng thời 2 lá dong lớp trên vào, vừa gấp vừa vỗ nhẹ để tạo hình khối vuông
Gấp tiếp đồng thời 2 lá dong lớp dưới vào như lớp trên, vừa gấp vừa lèn chặt nhẹ tay
Dùng lạt buộc xoắn lại tạo thành hình chữ thập
2 bánh chưng buộc úp vào nhau thành một cặp
Cách gói một bánh chưng
Gói theo khuôn hình vuông khoảng 20 cm x 20 cm x 7 cm sẵn có. Khuôn thường làm bằng gỗ.
Với cách gói có khuôn các giai đoạn cũng được tiến hành như trên. Tuy nhiên, người ta cắt tỉa bớt lá dong cho gọn (vừa kích thước khuôn) và đặt trước các lớp lá xen kẽ nhau vào trong khuôn (3 hoặc 4 lá, nếu gói 4 lá bánh sẽ vuông đẹp hơn. Khi đó thường thì 2 lá xanh quay ra ngoài xếp tại 2 góc đối xứng nhau, và 2 lá xanh quay vào trong để tạo màu cho bánh). Sau khi đã cho nhân vào trong, các lớp lá lần lượt được gấp lại và sau đó được buộc lạt.
Cách gói bánh có khuôn thì bánh đều nhau hơn và chặt hơn do được vỗ đều gạo, nén chặt, còn gói không khuôn thì bánh được gói nhanh hơn do đỡ mất công đo cắt lá theo kích thước khuôn. Bánh được gói không khuôn thì mặt trên lá được quay ra ngoài, còn với bánh có khuôn thì mặt dưới lá lại được quay ra ngoài.
LUỘC BÁNH
Lấy nồi to, dầy với dung tích trên 100 lít tùy theo số lượng bánh đã được gói. Rải cuộng lá dong thừa xuống dưới kín đáy nhằm mục đích tránh cho bánh bị cháy. Xếp lần lượt từng lớp bánh lên đến đầy xoong và xen kẽ các cuộng lá thừa cho kín nồi. Đổ ngập nước nồi và đậy vung đun. Người nấu bánh thường canh giờ tính từ thời điểm nước sôi trong nồi và duy trì nước sôi liên tục trong 10 đến 12 giờ. Trong quá trình đun, thỉnh thoảng bổ sung thêm nước nóng để đảm bảo nước luôn ngập bánh (người thực hiện thường đặt sẵn ấm nước bên cạnh bếp đun bánh để tận dụng nhiệt lượng). Những chiếc bánh ở trên có thể được lật giở để giúp bánh chín đều hơn, tránh tình trạng chưa chín hẳn khi đã vớt bánh ra sau này. Trong lúc đun, có thể lấy bánh ra, rửa qua trong nước lạnh, thay một lượt nước mới khác, bánh sẽ ngon hơn.
Từ ngàn xưa, ca dao của người Việt Nam vẫn có những câu nói về cách hành xử của con cái đối với cha mẹ:
Một lòng thờ mẹ kính chaCho tròn chử hiếu mới là đạo con
hay
Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân.
hay
Chí tâm niệm Phật đêm ngàyCầu cho cha mẹ sống tày non cao.
hay
“Đêm đêm khấn nguyện Phật Trời Cầu cho cha mẹ sống đời với con”
Qua đó cho thấy trong nhân cách của người Việt ta, lòng hiếu đối với cha mẹ là một điều rất căn bản. Hiếu chính là cách hành xử đúng mực đối với người mình đã thọ ơn. Đó là đạo Việt, đạo hiếu trong bổn phận của người làm con, chử hiếu cũng được tiếp nhận từ tư tưởng Phật giáo từ nhiều ngàn năm qua, - từ những nguồn văn hóa này, - nên vấn đề hiếu đạo được đề cao và chiếm vị trí quan trọng mối quan hệ giữa con cái đối với cha mẹ ông bà..
Tiếc rằng trong quá trình làm tay sai cho Nga Tàu, Hồ chí Minh đã xích hoá dân Việt vào học thuyết Marx, vì bị nhiễm độc bằng thứ văn hoá ngoại lai, nên nền tảng nhân văn trong đạo Việt bị phá vỡ, trong đó những đức tính tốt trong phạm trù hiếu đạo, đã bị xã hội lơ là, dẫn đến tình trạng thượng bất chính hạ tất loạn, trên không ra trên dưới không ra dưới như hiện nay. Văn hoá truyền thống của một xã hội Văn Lang có từ thời Hùng Vương đã bị lung lay tận gốc rể.
Là người Việt Nam, có lẽ không ai trong chúng ta lại không nghe qua hay đọc sự tích bánh Chưng, bánh Giầy, – một câu chuyện cổ tích không những kể về nguồn gốc xuất hiện của chiếc bánh Chưng, bánh Giầy trong mỗi dịp lễ Tết cổ truyền dân tộc, mà còn đề cao tư tưởng đạo Hiếu trong mạch sống thường nhật của mỗi người dân Việt Nam từ xa xưa cho đến hôm nay.
Như chúng ta đã biết, vào đời Hùng Vương thứ VI, sau khi dẹp xong giặc Ân, vua có ý định truyền ngôi cho con để nghỉ ngơi,.
Nhân ngày đầu Xuân, vua Hùng cho triệu tập các hoàng tử đến và phán rằng, trong số các ngươi, người nào tìm được thức ăn ngon lành, bày trên mâm cỗ sao cho có ý nghĩa nhất, ta sẽ truyền ngôi cho.
Các hoàng tử đua nhau sai người lên rừng xuống biển tìm kiếm của ngon vật lạ để chờ ngày dâng hiến vua cha với hy vọng giành được ngôi Cửu trùng.
Trong khi đó, hoàng tử thứ 18 của vua Hùng là Tiết Liêu, còn gọi là Lang Liêu, – vốn bản tính hiền lành, đạo đức khiêm cung, hiếu kính cha mẹ. Ông mồ côi mẹ, lại đang sống với dân quê nên lòng bồn chồn lo lắng, đứng ngồi không yên, chẳng biết lấy gì tiến cúng vua cha.
Một hôm, Tiết Liêu nằm chiêm bao thấy có một vị Thần đến mắt bảo rằng: này con, trong trời đất, không có gì quý hơn gạo, vì gạo nuôi sống con người. Con hãy lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông để tượng hình cho trời và đất. Hãy lấy lá bọc ngoài bánh, nhân đặt trong bánh để tượng trưng cho công ơn sinh thành dưỡng dục của cha và mẹ.
Tỉnh mộng, Tiết Liêu vô cùng mừng rỡ. Ông liền chọn nếp gạo thật ngon tự tay gói lại thành hình vuông để tượng hình cho đất, sau đó bỏ vào nồi chưng chín, gọi là bánh Chưng. Và ông lấy nếp chưng chín, rồi giã chúng thật mịn làm thành hình tròn để tượng hình cho trời, gọi là bánh Giầy. Còn lá xanh bọc bên ngoài và đậu bỏ bên trong là để tượng trưng cho tình yêu thương của cha mẹ luôn đùm bọc, chăm sóc con cái.
Đến ngày hẹn, các hoàng tử, người nào người nấy nô nức dâng lên vua Hùng nào là sơn hào hải vị, nào là của ngon vật lạ quý hiếm. Đặc biệt, riêng hoàng tử Tiết Liêu chỉ dâng cúng vua cha hai thứ là bánh Chưng và bánh Giầy làm từ nếp gạo.
Hùng Vương thấy lạ quá, bèn hỏi Tiết Liêu. Tiết Liêu thành thực kể lại cho vua cha nghe câu chuyện về vị Thần và ý nghĩa của chiếc bánh Chưng, bánh Giầy. Nghe Tiết Liêu trình bày xong, vua Hùng nếm thử bánh. Vua khen ngon và hạ lệnh truyền ngôi báu cho Tiết Liêu.
Tuy sự tích bánh Chưng, bánh Giầy trên đây chỉ là một câu chuyện cổ tích truyền tụng trong dân gian nước ta từ ngàn xưa, nhưng nó vẫn gợi lên cho tất cả chúng ta những điều cần suy gẫm về vai trò của chữ hiểu trong cuộc sống trước đây cũng như hôm nay.
Tại sao vua Hùng lại không chọn, không chấm điểm những thứ sơn hào hải vị, và vật ngon quý hiếm do các hoàng tử dâng cúng ấy, và lấy những thứ đó làm tiêu chuẩn truyền ngôi báu hay tìm người kế vị lãnh đạo quần chúng?
Phải chăng vua Hùng đã nhận thấy rằng, tất cả những của ngon vật lạ mà các hoàng tử dâng lên ấy, đã không những không nói lên được những đức tính “cần, kiệm, liêm, chính...” vốn là những đức tính “ắt có và đủ” của một người lãnh đạo mà bộc lộ rõ ý muốn “tranh danh đoạt lợi”, và phơi bày tâm lý hưởng thụ xa hoa, cho nên vua cha không truyền ngôi cho một trong số các hoàng tử này?
Trái lại, hình ảnh chiếc bánh Chưng, bánh Giầy tuy hết sức đơn sơ bình dị nhưng nó lại gợi lên trong tâm thức vua Hùng hình ảnh của đất trời, của giang sơn gấm vóc mà suốt đời ngài đã hy sinh cống hiến để bảo vệ, và hình ảnh của những con dân tay lấm chân bùn, dãi nắng dầm mưa để tạo nên những hạt ngọc hạt vàng nuôi sống con người, – trong đó có cả nhà vua.
Bất chợt, vua Hùng ngộ ra cái đạo lý đơn sơ bình dị ấy vốn dĩ đã bao nhiêu năm ngài ấp ủ nó kín ở trong lòng. Đó là, chỉ có những ai hiểu rằng hạnh phúc vốn nằm ngay trong những cái rất bình thường của cuộc sống, chứ không phải nằm trong những cái cầu kỳ xa hoa mới có thể lãnh đạo non sông, đất nước.
Người nào hiểu được điều ấy chính là hiểu lòng của vua. Mà để hiểu được lòng vua phải là người con chí hiếu. Và không ai khác, đó chính là Lang Liêu, – một người con đã thấu hiểu lòng cha khi dâng cúng chiếc bánh Chưng, bánh Giầy, vốn là biểu tượng của hiếu đạo. Khi Lang Liêu đã thấu hiểu lòng vua cha thì cũng đồng nghĩa với việc đã thấu hiếu lẽ đất trời, tình chúng sinh. Cho nên, vua Hùng quyết định nhường ngôi báu cho ông.
Sự truyền ngôi báu của vua Hùng cho hoàng tử Lang Liêu đã chứng tỏ rằng, từ thời Văn Lang, một xã hội nguyên thủy cha ông ta đã biết lấy sự hiếu đạo để làm nền tảng trong việc chọn hiền tài cho đất nước, và làm thước đo nhân cách trong việc lựa chọn các nhà lãnh đạo đất nước. Quả thật, một người mà khuyết hiếu đạo thì chắc chắn sẽ khó trở nên một người lãnh đạo chân chính và xuất sắc. Bởi vì, tự thân người ấy còn chưa hiếu kính với ngay cả người đã có công sinh thành dưỡng dục ra chính họ thì làm sao người ấy có thể hiếu với bàn dân thiên hạ? và làm sao có thể yêu thương dân, lo lắng cho dân được?
Đất nước VN đã lâm nạn từ khi họ Hồ nhập cảng chủ nghĩa tam vô (vô gia đìinh, vô tổ quốc, vô thần) vào VN, thay thế nền văn hoá truyền thống tốt đẹp của tổ tiên, để biến VN thành một nước tiến nhanh tiến mạnh lên CNXH tiêu biểu, đúng theo bài bản của đệ III QTCS, nên Hồ đã ra sức triệt hạ nền văn hóa tốt đẹp của tổ tiên tận gốc rể.
Cách đây 40 năm, khi miền Nam vừa mới rơi vào tay cộng sản, thì nhiều nhà trí thức, nhân tài ở miền Nam đã không lưu vong ra nước ngoài, vì với lòng yêu mến quê hương, yêu Tổ Quốc, họ muốn ở lại để đem tài sức ra phụng sự đất nước, đồng bào, nên dù biết có bị cực khổ, nghèo nàn, họ vẫn chọn ở lại. Rồi khi kẻ “thắng cuộc” leo lên lãnh đạo miền Nam, với cái “đỉnh cao chí tệ, thậm tệ” của những kẻ dốt nát nhưng có quyền, u mê nhưng ngạo mạn, họ đã thực hiện một cuộc “cách mạng” mà họ bảo đó là một “cuộc thay đổi toàn diện”, nghĩa là một sự đảo lộn trật tự triệt để, để kẻ ngu cỡi đầu người khôn, kẻ đui dẫn đường cho người sáng! Trong các bệnh viện, những bác sĩ giỏi thì bị đi quét dọn vệ sinh, dọn cầu tiêu, còn các y bác sĩ người rừng, vô học của CS thì lên “làm chủ”, không phải chỉ là chủ của bệnh viện, mà làm “chủ nô” của các BS, y tá miền Nam! Trong trường học cũng vậy, giáo sư phải đi lao động sản xuất, chăn nuôi heo gà. Nhiều kỹ sư, bác sĩ, giáo sư…phải đi đạp xích lô, bán hàng rong hay ra chợ buôn thúng bán bưng kiếm sống! Có người vì quá nhục và quá ghê sợ CS, nên đã tìm cái chết cho cả gia đình bằng độc dược, vì không thể trốn ra nước ngoài!
Với Việt đạo, con người đều phải biết đền ơn, biết cách hành xử đúng mực, nghĩa là phải có lòng hiếu. Từ quan niệm đó, ngoài lòng hiếu đối với cha mẹ, rất quan trọng, nó còn nói đến hiếu với quốc gia xã hội, hiếu với dân. Như thế, mới đưa quan niệm về hiếu đạo lên tầm cao của nhân bản. Có thể nói trung với nước và hiếu với dân là một nền tảng đức hạnh của lãnh đạo với xã hội. Một đức tính tốt mà những đỉnh cao trí thậm tệ hiện nay đều không có, họ đã đảo ngược đức hạnh, quay lưng lại với truyền thống để làm kiếp nô tài cho Bắc Kinh, tức là trung với đảng hiếu với thiên triều.
Hơn thế nữa, một người khi thể hiện đạo hiếu, thì trong lòng phải thanh khiết không mong cầu, vô điều kiện. Có như vậy thì tâm hiếu mới đạt đến kết quả trọn vẹn. Hoàng tử Tiết Liêu, ông đã thể hiện tâm hiếu với vua cha mà trong lòng không mong cầu. Nhờ tâm hiếu vô điều kiện nầy ông đã được vua cha truyền lại ngôi báu, Để trở thành Hùng Vương thứ VII., tức Hùng Chiêu Vương (雄昭王): 1631 - 1432 (TCN).
Trước tấm gương hiếu hạnh của Hoàng Tử Lang Liêu, cho nên, ngay từ những ngày khai xuân, ông bà chúng ta nhắc nhở cho cháu sống hiếu đạo thông qua hình ảnh chiếc bánh Chưng, bánh Giầy dâng cúng trên bàn thờ Tổ tiên.
Chiếc bánh chưng làm tại làng nghề bánh chưng truyền thống Làng Ước Lễ, huyện Thanh Oai, Hà Nội nhân dịp Tết Nguyên đán Nhâm Ngọ (2002) đã được Sách Kỷ lục Guinness và tổ chức Ripley's Believe It or Not! công nhận là chiếc bánh chưng lớn nhất thế giới. Bánh nặng 1,4 tấn do 50 nghệ nhân làng Ước Lễ làm ra từ 330 kg gạo nếp, 100 kg đậu xanh, 100 kg thịt lợn, gói bằng 1.500 chiếc lá dong và nấu trong một nồi thép cao trên 2 m trong hơn 72 giờ http://infonet.vn/qua-trinh-goi-banh-chung-khong-lo-tren-5-tan-o-hung-yen-post125082.info
BÁNH GIẦY
Còn gọi là bánh dầy
Vế cách viết từ " bánh giầy" tới nay vẩn chưa được thống nhất, vì vậy chúng ta nên nghiên cứu thêm về cụm từ "Bánh giầy" hay "bánh dầy"? vì đây là đề tài tranh cải nên chúng tôi là nhửng người trẻ hải ngoại, tri thức còn hạn hẹp, trước một vấn đề có tính tranh luận nên cố gắng trong khà năng tìm hiểu về vấn đề tranh cải nầy, để kiếm cái gì đó mang tính phổ thông, được nhiều người đồng thuận. Sự tìm tòi trong ngôn ngử nầy của chúng tôi, không mang tính quyết định, chỉ để dùng trong việc viết đề tài nầy. Như chúng ta đều biết, ngôn ngữ VN hiện giờ sau 1975, đã sinh ra hai trường phái về ngôn ngử khác nhau. Những ngôn từ được phe thắng cuộc đem vào nam và văn hoá Việt Nam Cộng Hoà trước 1975 của ngững người sống ở miền nam và những người hải ngoại ra đi từ miền nam VN.
Tuy nhiên quan niệm của người trẻ chúng tôi khi tìm hiểu về các vấn đề có liên quan đến lịch sử, truyền thống, tập tục lâu đời của Việt tộc, thì chúng tôi thường nghiên cứu các tài liệu của cả hai phía, để có thể tìm ra một từ ngử thích hợp cho việc viết bài, không còn coi đó là từ ngữ của phe nào
Do đó, trước vấn đề tên gọi BÁNH GIẦY, một cái bánh truyền thống và lâu đời nhất của Việt tộc, có trên 3000 năm, từ thời Hùng Vương thứ VII (1631 - 1432 TCN). Vì thế chúng tôi rất cẩn trọng cân nhắc và tôn trọng các tử ngử được lưu hành trong dân gian từ xưa cho đén nay.
Theo nhà ngôn ngữ học Trần Chút (phó hiệu trưởng Trường ĐH Văn Hiến), ông cho biết: “Bánh giầy” là từ biến âm của tiếng Việt cổ “bánh chì” ngày xưa (xưa: “ch” thì sau này biến thành “gi”, xưa: âm “i” thì sau này biến thành “ây”, ví dụ như: chường Ý giường, bên ni Ý bên nầy).
Cũng nên nói thêm là tiếng Việt ta phát âm “d” và “gi” không khác nhau nên một số người nhầm lẫn “dầy” tức là dày, mỏng nên mới viết là “bánh dầy”.
Tuy nhiên, theo qui tắc chính tả tiếng Việt hiện tại, viết “bánh giầy” là chuẩn xác nhất. GS.TS Nguyễn Đức Dân (Trường ĐH Khoa học xã hội & nhân văn, ĐH Quốc gia) cũng khẳng định: “Dùng từ “bánh giầy” là đúng như hướng dẫn của từ điển tiếng Việt”.
Tiếp tục, chúng tôi cũng đã tham khảo một số từ điển tiếng Việt:Theo một số từ điển tiếng việt đã viết và theo nhận định tác giả Nguyễn Văn Đạm, NXB Văn Hóa – Thông Tin, thì bánh giầy nghĩa là: bánh làm bằng xôi giã thật mịn. Từ điển tiếng Việt của tác giả Minh Tân – Thanh Nghị – Xuân Lãm, NXB Thanh Hóa: “Bánh giầy: bánh làm bằng xôi giã thật mịn, nặn thành hình tròn, dẹt, có khi có nhân đậu xanh”. Đại từ điển tiếng Việt của tác giả Nguyễn Như Ý, NXB Văn Hóa – Thông Tin cũng giải thích: “Bánh giầy là bánh có hình tròn khum khum, màu trắng, rất dẻo, mịn mặt, làm bằng xôi trắng giã nhuyễn, khi ăn cặp với giò chả…”.
Để tìm hiểu tiếp chúng tôi nghiên cứu qua nhiều tài liệu hiện có trên mạng, nhận thấy từ ngữ bánh giày được dùng nhiều nhất, những tài liệu gồm có các sách giáo khoa trong nước, cách dùng từ của truyền thông trong nước và hải ngoại; các báo chí hải ngoại...Wikipedia; các bài viết của tôn giáo về bánh chưng.
HÌNH DẠNG BÁNH GIẦY
Bánh giầy hình tròn, màu trắng, tượng trưng Trời, dương. Cùng với bánh chưng, thể hiện triết lý Âm Dương, Dịch, Biện chứng Đông Phương nói chung và triết lý Vuông Tròn của Việt Nam nói riêng. Bánh giầy dành cho cha. Bánh thường được làm bằng xôi đã được giã thật mịn, có thể có nhân đậu xanh và sợi dừa với vị ngọt hoặc mặn.
Để làm bánh giầy, người ta chọn loại gạo nếp ngon, rửa kỹ (có thể hai, ba lượt), rồi giã trong cối tới khi có được một khối bột nếp chín dẻo quánh. Đây là công việc đòi hỏi sức vóc, thường chỉ nam thanh niên làm vì bột nếp chín đặc biệt dính và quánh, việc nhấc chày lên cũng không đơn giản. Nếu giã không nhuyễn hẳn ăn còn hạt gạo sẽ mất ngon, dễ bị "lại" bánh. Thường thường người ta có thể dùng chút mỡ lau vào đầu chày giã cho đỡ bị bết dính.
Bánh giầy loại phổ biến nhất là loại bánh giầy trắng không nhân, nhỏ bằng lòng bàn tay, nặn hình tròn dày chừng 1 đến 2 cm. Cứ 2 cái bánh thì thành một cặp. Người mua có thể chọn mua một cái hay cả cặp và thường kẹp ăn chung với giò lụa, giò bò, chả quế, ruốc,...
Có một địa danh gắn liền với bánh giầy, đó là bánh giầy Quán Gánh (trên đường từ Hà Nội đi Hà Nam). Khi đi qua địa danh giáp Hà Nội này, người ta thường gặp nhiều sạp bán bánh giầy Quán Gánh. Loại bánh này thường bán thành một cọc gồm năm bánh, nhân mặn hoặc nhân ngọt, gói trong lá chuối tươi.
Các loại bánh của nông thôn miền Bắc Việt Nam kể trên thường để không được lâu, có lẽ chỉ một ngày là se mặt hoặc lại gạo, hoặc ôi thiu.
Với loại bánh giầy của người vùng cao thì khác. Bánh được chế biến cùng cách kể trên mỗi dịp Tết, song được nặn to như cái bánh đa. Bánh được trữ trên gác bếp, để khô cả năm trời và là món ăn quý. Mỗi khi dùng, người ta xắt bánh ra thành miếng nhỏ, rồi nướng phồng trên bếp than như bánh tổ.
Bánh chưng - bánh giầy là sản phẩm độc đáo của một vùng văn minh lúa gạo rộng lớn ở Đông á và Đông - Nam Á. Lúa nếp có loại hình đa dạng nhất và điển hình nhất là ở lưu vực sông Hồng. Bởi vậy, nơi đây phong phú các lễ vật và món ăn được chế tạo từ gạo nếp. Dù sao, bánh chưng vẫn là lễ vật và món ăn cổ truyền điển hình nhất của ngày Tết Việt Nam.
Bánh chưng chứa đựng trong nó cả một nền văn minh nông nghiệp lúa gạo. Trong bầu khí văn minh đó, người Việt Nam sống vừa hòa hợp, vừa đấu tranh với tự nhiên. Lá dong gói bánh là lá dong riềng lấy sẵn của thiên nhiên. Cái bánh chưng, là sản phẩm của trồng trọt và chăn nuôi Việt Nam: gạo nếp, đỗ xanh, hành, thịt lợn... Cái đặc sắc, độc đáo của bánh chưng không phải chủ yếu là ở từng yếu tố họp thành cái bánh mà là ở cơ cấu của bánh, nó tạo nên nét khác biệt trong hình khối, mầu sắc, hương vị của bánh chưng so với các loại xôi đỗ và bánh nếp khác.
SỰ XUYÊN TẠC LỊCH SỬ VIỆT CỦA ĐẠI HÁN
Bánh chưng truyền thống của Việt tộc là một phó sản của lúa nước. Qua các chứng minh của ngành khảo cổ học đã khẳn định được nền văn minh lúa nước của VN chúng ta đã rất phát đạt trong thời Hùng Vương và do chính các vì vua của Lạc Việt đã dạy cho dân ta về cách trồng trọt cây lúa nước, vì vậy người Tàu còn phải nhiều học hỏi nơi Việt tộc chúng ta về nền văn minh lúa nước; không như sách sử Tàu như: Giao Châu ký, Tam Đô Phủ, Ngõ Lục địa Lý Chí, Nam Phương Thảo Mộc Trạng thường viết xuyên tạc:" Việt tộc chúng ta biết được cách trồng trọt cây luá nước từ tên Thái Thú của Tàu là Nhâm Diên. Nên biết thời Hùng Vương có trước Nhâm Diên hơn 2000 năm.
Nhâm Diên, người huyện Uyển, thuộc Nam Dương (Trung Quốc), làm thái thú Cửu Chân (từ năm ất dậu (25), đến năm kỷ sửu (29), thì được gọi về Trung Quốc. Ông được các bộ cổ sử Trung Quốc ca tụng là người đã dạy cho dân Việt biết cách dùng lưỡi cày bằng sắt (điền khí) để cày ruộng. Đây là sự xuyên tạc trắng trợn, hoàn toàn sai sự thật, và việc nầy được một số các nhà viết sử của VN đã tiếp tay vì thiếu nghiên cứu nguồn gốc sự có mặt của bánh chưng bánh giầy.
Dựa vào tài liệu của Trung Quốc, các sách xưa của người Việt đều viết gần giống như trên. Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên viết vào thế kỷ 15, trình bày sự kiện Nhâm Diên như sau: “Diên là người Uyển. Tục người Cửu Chân chỉ làm nghề đánh cá, đi săn, không biết cày cấy. Diên mới dạy dân khai khẩn ruộng đất, hàng năm cày trồng, trăm họ no đủ.” (Bản dịch của Nxb. Khoa học Xã hội Hà Nội: 1993, tập 1, tr. 155.) Khâm định Việt sử thông giám cương mục vào thế kỷ 19, viết tương tự như thế. (Tiền biên, quyển thứ 2).
Cho đến đầu thế kỷ 20, Trần Trọng Kim cũng nói rằng: “Bấy giờ dân quận ấy chỉ làm nghề chài lưới và săn bắn, chứ không biết cày cấy làm ruộng nương. Nhâm Diên mới dạy dân dùng cày bừa mà khai khẩn ruộng đất, bởi vậy chẳng bao lâu mà quận ấy có đủ thóc gạo ăn.” (Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Sài Gòn: Nxb. Tân Việt in lần thứ bảy, 1964, tr. 46.)
Những sử liệu nầy đều xuất phát từ nguồn sử liệu Trung Quốc, hay nói cụ thể là từ Hậu Hán thư. Mục đích của Hậu Hán thư nhằm kể công khai hóa của người Trung Quốc đối với người Việt, trong khi thực tế hoàn toàn trái ngược, vì một việc rất đơn giản: Ruộng lúa ở Việt Nam chúng ta là ruộng lúa nước, tức lúa gạo, trong khi ruộng lúa ở vùng châu thổ Hoàng Hà (Trung Quốc), nơi quần tụ của người Hán, là ruộng lúa khô, trồng lúa mỳ, lúa mạch và kê.
Ngay cả tài liệu cổ sử Trung Quốc cũng xác định ruộng lúa cổ Việt là ruộng lúa nước. Theo sách Giao Châu ngoại vực ký, [viết khoảng giữa đời Tấn (265-420), Trung Quốc] thì: “Hồi xưa, chưa có quận huyện, thì Lạc điền tùy theo thủy triều lên xuống mà cày cấy. Người cày ruộng ấy gọi là Lạc dân, người cai quản dân gọi là Lạc vương, người phó là Lạc tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu…”( Lê Tắc, An Nam chí lược [chữ Nho], Huế: Uỷ Ban Phiên Dịch Sử Liệu Việt Nam, Viện Đại Học, 1961, tr. 39.) Tùy theo thủy triều lên xuống mà cày cấy là ruộng lúa nước. Trong khi đó, người Trung Quốc xưa ở vùng Hoàng Hà trồng lúa mì và lúa mạch trên ruộng khô, làm sao giỏi kỹ thuật trồng lúa gạo ở ruộng nước hơn người Việt, mà dạy người Việt?
Trong cả một chiều dài ngàn năm chiếm đóng nước ta sách lịch sử, triết học, văn hoá, của Bách Việt người Tàu đã cướp về, đánh tráo, biến hoá thành của Trung Quốc, hoặc đốt hết để huỷ diệt văn hoá con người Việt, đồng hoá Việt thành Trung Quốc. Vì thế bọn Đại Hán thường đổi trắng thay đen về lịch sử VN.
Các học giả khắp thế giới và Việt Nam đã chứng minh về tính chất bản địa của những nền văn hoá tiền sử xưa nhất và phát triển nhất trên đất nước Việt Nam. Đặc biệt là Văn hoá Hoà Bình với sự ra đời sớm nhất thế giới của nông nghiệp luá nước.
Học giả Sauer Hoa Kỳ viết trong quyển Đồng Quê: “Đúng là nông nghiệp đã tiến triển qua hai giai đoạn, mà giai đoạn đầu là giai đoạn của Văn hoá Hoà Bình (Việt Nam) lúa nước đã được trồng cùng một lúc với củ môn nước (khoai sọ).
Sauer cho rằng “Họ (Việt tộc) đã làm một bước đi quyết định cho loài người trên đường tiến bộ. Đó là việc thuần hoá cây cỏ đầu tiên, một phát triển sớm sủa nhất của nhân loại trong nông nghiệp”. Vùng Hoà Bình của VN, theo các di chỉ khảo cổ học đã tìm thấy nơi đây được thế giới công nhận :
VIỆT-NAM, TRUNG-TÂM NÔNG-NGHIỆP LÚA NƯỚC VÀ CÔNG-NGHIỆP ĐÁ, XƯA NHẤT THẾ GIỚI. http://www.danhgiactau.com/index.php/vi/noi-ket-mang/95-bk/154-nk04-viet-nam-trung-tam-nong-nghiep-lua-nuoc-va-cong-nghiep-da-xua-nhat-the-gioi
Những tài liệu nầy cho thấy dân Lạc Việt đã biết làm ruộng lúa nước và đã biết sử dụng điền khí (bằng đồng) trước khi người người Trung Hoa đến xâm lăng. Lúc đó, dân Lạc Việt dùng lưỡi cày bằng đồng vì đồ đồng là nghề luyện kim của dân Lạc Việt (vốn nổi tiếng về trống đồng), và nhất là đồ sắt bị hạn chế, do việc bà Lữ hậu nhà Hán đã ra lệnh cấm xuất cảng sắt xuống phía nam Trung Quốc từ năm 183 TCN. (Quốc sử quán triều Nguyễn, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản dịch tập 1 của Nxb. Giáo Dục, Hà Nội, 1998, tr. 92.)
Ngày nay, kết quả khảo cứu của các học giả Hoa Kỳ, Nga, Trung Quốc và cả Việt Nam đều xác nhận rằng trung tâm đầu tiên của nền văn minh lúa nước trên thế giới là Đông Nam Á, rồi từ đó lan truyền đi khắp thế giới. Cũng theo các tác giả trên, tâm điểm của trung tâm văn minh lúa nước ở Đông Nam Á chính là khu vực Hòa Bình ở Bắc Việt Nam. (Trần Ngọc Thêm, Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb. TpHCM, 1997, tt. 75-86.) Hòa Bình nằm trên vùng uốn khúc của sông Đà đổ về sông Hồng, gần huyện Mê Linh (tức Phú Thọ, Vĩnh Phúc), quận Giao Chỉ thời cổ Việt, nơi phát tích của Hai Bà Trưng.
Đến nay , thế giới còn phát hiện ra việc xây dựng và thiết kế Tử Cấm Thành tại thủ đô Bắc Kinh của Tàu, là do một thái giám người Việt làm quan thời nhà Trần, bị bắt về Tàu; chính ông nầy là công trình sư cho việc xây dựng một công công trình lớn nhất thế giới vào thời điểm nầy. http://web.archive.org/web/20070629082504/http://www.anviettoancau.net/html/cn6/nganxdbackinh.htm
Nói tiếng Đức, có phụ đề tiếng Việt
Qua những chứng liêu ngày hôm nay, người Việt chúng ta đã chứng minh được những điều đã bị bọn Tàu bắc phương giấu nhẹm và bóp méo cã ngàn trăm qua. Thật xấu hổ cho Đại Hán trước những khám phá của thế giới về văn minh lúa nước của người Việt cổ. Như vậy Việt từ Tàu hay Tàu từ Việt mà ra đã quá rỏ ràng rồi. Với những chứng minh bằng khảo cổ học và các học giả khắp nơi trên thế giới, từ nay bọn Tàu khó mà xuyên tạc được các nền văn minh xuất phát từ người Việt cổ. Cái gì của César phải trã lại cho César!!
Võ thị Linh 18/1/2015
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét