Thứ Ba, 27 tháng 6, 2017

SUỐT 20 NĂM VNCH TỒN TẠI 

SAO KHÔNG THẤY DÂN OAN?

Để có sự công bằng trong vấn đề phân chia ruộng đất trên bình diện tổng thể miền nam VN cho nông dân nghèo, với những nỗ lực không ngừng của chính quyền đệ nhất và đệ nhị cộng hòa đã ban hành những đạo luật:
1. Đệ nhất Cộng hòa: Tổng Thống Ngô Đình Diệm ban hành Luật Cải Cách Điền Địa, qua Dụ số 57 vào ngày 22-10-1956, . Đây cũng là điểm khởi đầu giúp đỡ người dân nông thôn thoát khỏi cảnh nghèo đói.

2. Đệ nhị Cộng Hòa: Luật Người cày có ruộng do Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ban hành ngày 26.3.1970.


Từ sau cuộc tổng tấn công của quân cộng sản năm 1968 vào các thành phố lớn của miền nam VN. Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã dồn hết mọi nổ lực để bình định nông thôn, nhằm mục tiêu quét sạch bọn cs nằm vùng ở nông thôn. Ngày 25-8-1969, Tổng Thống Thiệu đưa dự luật Người Cày Có Ruộng ra quốc hội thảo luận. Điểm chính của dự luật là giảm số ruộng đất tối đa điền chủ xuống còn 15 ha, trưng thu và cấp (không bồi hoàn) cho hơn tám trăm ngàn nông dân chưa có ruộng cày.
Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu cấy lúa trong ngày ban hành luật 
" Người Cày Có Ruộng" 26.3.1970 tại Cần Thơ.

Ngày 26-3-1970, Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu cho ban hành luật Người Cày Có Ruộng (NCCR) và lấy ngày này làm Ngày Nông Dân. Tại Cần Thơ vào ngày 26-3-1970, ngày ban hành Luật NCCR Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố:
“Hôm nay là ngày vui sướng nhất của đời tôi.” Ông cho biết: “Tôi đã từng tham gia Việt Minh. Tôi biết rằng Việt Minh là cộng sản, họ bắn người dân, họ lật đổ các ủy ban xã, họ tịch thu đất đai”.
Dưới thời VNCH các ruộng đất không được trực canh bị truất hữu phát cho các tá điền đang canh tác. Mỗi tá điền được phát 3 ha ở Nam phần hay 1 ha ở Trung phần. Điền chủ trực canh được giữ lại tối đa 15 ha. Đất truất hữu được trả 20% bằng hiện kim và 80% bằng công khố phiếu với 10% lãi trong tám năm. Giá trị của đất ruộng quy định là 2,5 lần giá năng suất thóc (hay lợi tức) từ khoảnh đất đó.
Trong vòng 3 năm, 1970-1973, đã có 51.704 điền chủ bị truất hữu tổng số ruộng là 770.105 mẫu. Trong thời chiến đa số ruộng đất bị ảnh hưởng, nên đa số các điền chủ bị truất hữu nhưng không làm cho họ bất mãn. Để đền đáp chính phủ cho phổ biến rộng rãi các bích chương: “Người Cày có ruộng ghi ơn tinh thần hy sinh của điền chủ.”
Suốt hai nền đệ nhất và đệ cộng hòa không hề có sự mâu thuẩn nào lớn lao để xuất hiện một giai cấp mới là "dân oan" trong xã hội miền nam từ 1955-30/4/1975. Một trong những thành tựu lớn trong việc an dân trong chánh thể VNCH là biết hành xử với dân theo tư tưởng của Mạnh Tử : "Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh". Đây là chính là một tư tưởng cách mạng ngay từ thời Mạnh Tử - và được coi là rất táo bạo trong thời quân chủ đang thịnh hành.
Ngày nay tư tưởng này vẩn còn giá trị tồn tại mặc dù không phải là thời quân chủ chuyên chế. Bất cứ một chế độ chính trị nào biết vì dân, thì cần phải có luật pháp nghiêm minh vì dân, đối xử công bằng và họp lý để người dân có thể cộng hưởng chung với thế quyền như: Vua, Tổng thống, Thủ tướng, Tổng Bí Thư đảng...nói tóm lại là những người lãnh đạo đất nước không thể coi mình là con trời ( độc đoán) rồi được phép hành xử bất công và tàn ác với con dân mình. Một chế độ muốn người dân thương mến và đồng hành với người cầm quyền là phải biết duy dân và vì dân. Muốn vậy, phải có luật pháp công bằng, dẫu vua quan hay các công nhân viên chức trong bộ máy cầm quyền cũng không được vượt ra ngoài pháp luật. Người trị dân, trị nước phải cần mẫn chăm lo việc dân việc nước, làm cho đời sống của dân được sung túc, phải lo giáo dục dân để hiểu rõ luật pháp mà tuân theo, lấy nhân nghĩa làm cơ bản để thi hành, trách việc dùng bạo lực với dân.
Nhìn chung, hai chế độ VNCH đã đáp ứng được nhu cầu đó của quốc dân đồng bào từ vỉ tuyến 17 đế mủi Cà Mau nên trong suốt 20 năm tồn tại không bao giờ có nạn "Dân oan" bị cướp đấp , cướp nhà xảy ra như trong chế độ VNDCCH và CHXHCNVN do người cộng sản cầm quyền. Đây là lý do mà VNCH không hề có dân oan khiếu kiện vì bị cưỡng chế đất đai.
“Chính sách người cày có ruộng”, do Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu ban hành, trong đó có những khoản được nêu như sau:

- Bất cứ điền chủ nào có trên 100 mẫu đất, phải bán phần thặng dư cho chính phủ, để phân phối lại cho các Tá điền không có đất cày cấy.

- Các điền chủ có ruộng đất bị truất hữu sẽ được Chinh phủ trả 10% giá trị đất đai của họ bằng tiền mặt, phần còn lại sẽ được Chính phủ trả bằng trái phiếu trong vòng 12 năm. Trái phiếu nầy có thể dùng để mua các cổ phần trong các xí nghiệp kỹ nghệ quốc doanh hoặc dùng để trả thuế.
- Tiền thuê đất chỉ giới hạn đến mức 25% trong tổng số nông phẩm thu hoạch.
- Các Tá điền thuê đất có thời hiệu trong vòng 5 năm.
- Các Nông dân mua đất theo chương trình NGƯỜI CÀY CÓ RUỘNG của Chính phủ, sẽ được trả góp trong vòng 06 năm không có lãi xuất.
- Các đất đai trồng lúa thuộc các Điền chủ người Pháp sẽ được Chính phủ Việt Nam mua lại, với sự tài trợ tài chánh từ Chính phủ Pháp.
Sau hai năm áp dụng từ 1955-1957, đạt thành quả như sau:
- Hơn 600.000 Khế Ước thuê đất đã được ký kết giữa Điền chủ và Tá điền. Các Nông gia và Hợp tác xã đã được cho vay tổng số tiền lên đến 250.000.000 đồng và 26.120 mẫu đất đã được phân phối cho các Nộng dân muốn sở hữu đất đai.

Riêng tại miền bắc, từ khi Hồ Chí Minh cướp được chính quyền 1945 sau đó đã áp dụng chính sách cải cách ruộng đất trong những vùng tạm chiếm vào những năm đầu của thâp niên 1950 theo sự chỉ đạo của Trung Cộng. Ngay sau Đại Hội Đảng kỳ II, tháng 12 năm 1951 tại Việt Bắc, vấn đề cải cách ruộng đất đuợc đưa ra và chuẩn bị khá kỹ lưỡng từ thực tế đến pháp lý. Các cán bộ cộng sản được cử qua Trung Cộng để được huấn luyện cho việc cải cách ruộng đất. Hồ chí minh đã ban hành sắc Lệnh 149/SL quy định về chính sách ruộng đất và sắc Lệnh 151/SL quy định về trừng trị điạ chủ do hồ chí minh ký ngày 12 tháng 4 năm 1953 là thời gian đang tiến hành chiến dịch giảm tô. Ngày 12-12-1953 các Sắc Lệnh trên được Quốc Hội thông qua và Hồ Chí Minh chính thức ban hành ngày 19-12-1953, nhân kỷ niệm ngày Toàn Quân Kháng Chiến, chính thức mở đầu cho các đợt Cải Cách Ruộng Đất long trời lở đất trên khắp miền Bắc.
Trích "Từ Chuyện Dân Oan"
"...Lấy đất nhà không thỏa đáng đền bù

Chuyên dựng chuyện tạo luật rừng luật rú

Đám dân oan chống đối bỏ ngồi tù !
Ôi tàn nhẫn một bọn người lãnh đạo

Nay còn đâu thể thống cả chính quyền ?

Hết tham nhũng rồi độc tài cướp bóc
Đất nước mình chẳng mấy lúc bình yên !...."
(Tác giả: CHÍNH TRỊ)

Còn sáng tác CCRĐ của hồ chí minh chỉ nhắm để cướp của, cướp tài sản của dân đưa vào ngân khố riêng của các cấp lãnh đạo đảng csVN. Sau đó giai cấp bần cố nông chỉ là những con vật làm thuê từ đời này qua đời khác cho đảng cs ngay chính trên mảnh đất của mình. Hậu quả của cuộc CCRĐ rất tàn khốc là dẫn đến cái chết của gần 200,000 người dân vô tội và phá hủy toàn bộ những giá trị đạo đức, quan hệ giữa người và người mà hệ quả đã kéo dài cho mãi đến ngày hôm nay. Một giai cấp mới với hàng trăm ngàn người " Dân oan" đã xuất hiện bắt đầu từ năm 1953 và đến khi chia đôi đất nước 1954 đã có khoảng một triệu người miền Bắc, bỏ nơi chôn nhau cắt rốn di cư vào Nam để được tìm tự do. Sau ngày 30-04-1975 cộng sản chiếm được miền nam, thì nạn dân oan gần như xuất hiện trên toàn lãnh thổ miền nam VN. Nơi nào cơ quan hành chánh của nhà nước là nơi đó có dân oan, dân oan đầu tiên là các thành phần bị cộng sản qui là tư sản mại bản, địa chủ, quân cán chính VNCH...đều bị cộng sản cướp sạch nhà cửa tài sản, rồi tống lên vùng kinh tế mới. Tiếp theo đó là bắt đầu cho những chuổi ngày đen tối của đất nước, những dân oan mới và cũ đã lên đến hàng chục triệu người nếu có thống kê đầy đũ.
Tóm lại miền VN trước 1975 không hề có thành phần dân oan như thời đại tà quyền cộng sản cai trị. Ngày nay Sài Gòn và những nơi trù phú của miền nam là nơi mà con cháu và thân nhân của các cán bộ đảng viên cộng sản đang chiếm dần những vị trí hạng nhất để làm nơi sinh sống và gầy dựng cơ sở thương mại. Một xã hội đầy bất công ngày càng leo thang khắp nơi, điều này nói lên được bản chất ăn cướp của đảng cộng sản từ ngày có mặt trên quê hương VN, đâu đâu cũng thấy cướp của dân. .. nếu lấy hết trúc trên núi Nam Sơn, chẻ thành tre là bút, lấy hết nước biển đông để làm mực cũng khg viết hết cái tội ác của dảng csVN và tội ác của hồ chí minh. Nổi đau thương của dân oan giờ đây đã ngút trời xanh.
....Em vẫn biết từ ngàn xưa cho đến ngàn sau

Quan tham nhũng không thể nào trừ bỏ

Nhưng sao mãi cứ trơ trơ mắt ngó
Những đồng tiền khốn khổ của nhân dân
Cứ tuồn về chất đống ở nhà quan
Rồi bịt miệng ai to gan dám nói !
Anh khôn ngoan xin cho em được hỏi
Sao dân mình mãi đói khổ thế anh ?
Bảy mươi năm đất nước đã đấu tranh
Mà hạnh phúc, tự do sao chẳng thấy?
Mà dân oan mỗi ngày càng đông vậy ?
Tình cảnh này, nông nỗi đó bởi vì đâu ?
Thơ đã dài, em xin hẹn lần sau
Vì đất nước về đâu anhqđã rõ !!
(Trích "Chuyện Đất Nước Mình ",tác giả: Trần Đức Phổ)

Nguyễn Thị Hồng 27.6.2017

Thứ Bảy, 24 tháng 6, 2017

BẢN CHẤT CỦA NHỮNG JUDAS 
TRONG MÔN PHÁI VOVINAM
Phù hiệu Vovinam phiên bản

Ở bất cứ xã hội nào và ở vào  thời điểm nào trong môn phái hay ngoài xã hội cũng có những con người ích kỷ, chỉ biết lo cho bản thân mình mà không màng tới đồng môn và người chung quanh. Và mầm móng ích kỷ, vô trách nhiệm của những công dân hay môn sinh trong môn phái chúng ta, đó là hiện tượng thấy nhiều nhất trong xã hội độc đảng độc tài, một chế độ được điều khiển bởi những con người có tâm địa xấu xa. Nếu nhìn cho kỹ và khách quan, thì tất cả người dân trong xã hội đó đều đáng thương luôn cã những môn sinh trong các tổ chức do đảng lèo lái và lãnh đạo như Vovinam- Việt Võ Đạo chúng ta. Tất cã đều là nạn nhân của một guồng máy tồi bại, mà tương lai thì hoàn toàn đen tối, ngoại trừ một thiểu số đảng viên đảng cs được hưởng bổng lộc của chế độ cầm quyền.

Những tên Judas bán chúa thường hay xuất hiện vào những lúc có biến đổi về chính trị hay một biến động nào của thế quyền. Trong môn phái Vovinam chúng không được may mắn vì nạn Judas bán chúa đã xảy ra ngay khi Chưởng môn Lê Sáng còn sống. Đám võ sư này, khi thấy người thầy đáng kính của mình hết còn quyền điều hành môn phái (bị đảng cầm quyền tước đoạt) trong những ngày cuối đời. nên chúng chạy theo thế quyền để chôm Credit tài khoản của môn phái Vovianm dâng bán cho đảng cộng sản. Trước tiên, đám Judas này dùng những văn thư do chưởng môn ký để bắt đầu chiến lược thao túng Vovinam, chúng không ngần ngại khoa trương những quyết định thành lập do chưởng môn Lê Sáng ký, nhưng thật sự chử ký đó của chưởng môn đều không có giá trị về mặt pháp lý. Vì võ sư Lê sáng đã bị đảng cộng sản tướv hết mọi quyền điều hành môn phái, ông không được cấp đai cho môn sinh và ra các quyết định để dùng trong sinh hoạt của môn phái kể từ ngày 29/04/1994.

Năm 1994, Tổng cục Thể dục Thể thao CHXHCNVN đã ngang nhiên thành lập một Ban Điều Hành cho VoViNam Việt Võ Đạo toàn quốc bằng quyết định 176 được ký ngày 29/04/1994 bởi Phó Tổng cục trưởng là Mai văn Muôn, theo đó thì Trưởng ban là ông Trương quang Trung, chức vụ là phó Vụ trưởng Vụ TDTT quần chúng, Tổng thư ký Liên đoàn Võ thuật Cổ truyền là Trưởng ban. Ông Trương quang Trung không  là Môn sinh VoViNam, nhưng là đảng viên nên nắm quyền chi phối, lãnh đạo môn phái VoViNam trên toàn quốc. Và võ sư Chưởng Môn Lê Sáng được vc chỉ định làm “Cố Vấn Chuyên Môn” (Quyết định số 234/QĐ của TCTDTT ngày 4/5/1995). Coi như từ ngày đó võ sư chưởng môn Lê sáng của chúng ta chỉ còn làm công việc ngồi chơi xơi nước, xem các đệ tử của mình hàng ngày đánh roi múa quyền. Đó là cuộc sống những ngày cuối đời buồn tẻ của Chưởng môn môn phái Voviam lừng lẫy trước 1975.

Sau khi cấu kết với đám Judas (những VC nằm vùng trước 1975) trong môn phái Vovinam, đảng cộng sản VN đã tuyên bố chính thức với các môn sinh Vovinam -Việt Võ Đạo là kể từ đây Chức vụ Chưởng môn không còn giá trị nửa. Các việc quản lý thằng cấp và điều hành toàn bộ VoViNam trong và ngoài nước sẽ do LIÊN ĐOÀN VOVINAM-VN và QUỐC TẾ đãm nhiệm. 


Câu chuyện Judas bán Chúa vẩn thường được lưu truyền trong nhân gian để coi đó như là một hình ảnh của một thứ phản bội ghê tởm như: trò phản môn phái, phản thầy, tớ phản chủ, bạn phản bạn, con bán đứng cha mẹ, vì tham tiền của và danh lợi, những việc này không phải là chuyện hiếm xẩy ra trong xã hội biến dạng theo tư tưởng vô đạo đức của hồ chí minh. Vì lòng tham lam mà những con người  phút chốt sẽ trở thành nham hiểm như và thô bỉ tận cùng như thế đấy!

Giuđa Ítcariốt (Judas Iscariot,  chết năm 30-33 sau Công Nguyên) ,theo Tân Ước,là một trong mười hai tông đồ đầu tiên của Chúa Jesus Christus (Giêsu). Trong nhóm mười hai, Judas được biết như là người giữ "túi tiền" nhưng ông nổi tiếng đến với vai trò phản bội Chúa Giêsu và nộp ông cho các chức sắc Do Thái.  
Những Judas ngày hôm nay trong môn phái chính là Hội Đồng Võ Sư Chưởng Quản Môn Phái ( HĐVSCQMP) rồi tới Hội Đồng Võ Sư Tương Trợ Hải Ngoại (HĐVSTTHN), sau rốt là những cánh tay nối dài của Judas tại hải Ngoại, qua một số võ đường núp dưới bóng cờ vàng ba sọc đỏ để trục lợi cho đảng csVN. 

Gia đình Judas tiêu biểu của môn phái Vovinam đó là gia đình võ sư Nguyễn văn Chiếu, từ cha tới con trai, con gái, con rể đang đục ruỗng môn phái VVN.
http://www.baomoi.com/khi-lien-doan-vovinam-la-nha/c/17333829.epi


Một con sâu làm rầu nồi canh

Vài con sâu gớm bữa cơm lành
Một bầy sâu phá làng thối xóm


Những bầy sâu... ơi những bầy sâu..

Đục ruỗng cả quê hương

NGUYỄN BÌNH ĐỊNH CON TRAI NGUYỄN VĂN CHIẾU ĐĂNG KÝ BẢN QUYỀN " SỞ HỮU TRÍ TUỆ"  PHÙ HIỆU MÔN PHÁI VOVINAM




Một câu chuyện sôi nổi gần đây nhất của gia đình Judas Nguyễn Văn Chiếu, đó là việc cha Nguyễn Văn Chiếu và con trai Nguyễn Bình Định thông đồng với nhau trong việc đem phù hiệu của môn phái, sau khi sửa chửa một vài nét rồi đem  đi đăng ký "bản quyền sở hữu trí tuệ" . Được biết phù hiệu môn phái theo dòng lịch sử phát triển có từ khi sáng tổ Nguyễn Lộc thiết kế cho môn phái tức là vào cuối thập niên 1950, đó là di sản của môn phái vốn sẳn có từ trước khi Nguyễn Bình Định (con trai của võ sư NVC) chào đời. Thời gian sau, môn phái bắt đầu phát triển mạnh từ năm 1964 các vỏ sư trong Hội Đồng Võ Sư đầu tiên của môn phái năm 1964 đưa ra một dị bản từ sáng tác của sáng tổ Nguyễn Lộc. Dị bản này được sử dụng trong toàn môn phái thuộc lãnh thổ VNCH. Nay lại thấy con trai của ông NVC một trong những lãnh đạo bất chính của Vovinam quốc doanh trong nước, tạo ra một dị bản từ bản gốc của sáng tổ Nguyễn Lộc và Hội Đồng Võ Sư 1964, rồi chiếm hữu làm của riêng cho gia đình!!

Judas Chiếu ngoài chức vụ cao trong môn phái Vovinam Việt Võ đạo quốc doanh, ở vị trí của Liên đoàn Vovinam Việt Nam, ông Nguyễn Văn Chiếu đang giữ chức Phó chủ tịch thường trực kiêm Tổng thư ký. Ông Nguyễn Bình Định, con trai ông Chiếu giữ chức phó Tổng thư ký Liên Đoàn Vovinam VN ( quốc doanh).

Không cần phải bàn cãi, 4 chức vụ quan trọng này đã được 2 cha con nhà họ Nguyễn nắm giữ, thừa sức làm chủ mọi tình huống trong việc điều hành.  Có người nói vui: “Cha con một nhà, nắm giữ quyền hành sẽ tạo được sự thống nhất từ trên xuống dưới, quan trọng nhất là đỡ phải… họp”. Thế nên cũng chẳng lạ khi ông Nguyễn Bình Định vốn là chàng sinh viên môn bóng đá ĐH. TDTT/ TP.HCM bỗng chốc ngồi lên chiếc ghế to của làng võ. Sâu cha đẻ sâu con, chúng đang đục ruỗng môn phái VVN từ sau khi dâng môn phái cho đảng csVN.

Khi còn trực thuộc Liên đoàn Võ thuật TP.HCM,  Với tài điều hành của NVC trong các kỳ đại hội không bao giờ  bao giờ  đưa ra một bản báo cáo về tài chính nào. Trong khi đó, hàng năm để cấp bằng, thi cử từ cấp lam đai đến hoàng đai tam (gồm 7 cấp thi) đều phải nộp lệ phí từ 50.000 đến 200.000/môn sinh. Hiện TP.HCM có đến hơn 200.000 người tập luyện kể các các CLB trường học cấp I,II,III, đại học. Chỉ cần làm một phép cộng đơn giản, “tập đoàn Vovinam” này đang ăn nên làm ra với con số thu nhiều trăm triệu đồng mỗi năm. Nguồn báo cộng sản: http://www.baomoi.com/khi-lien-doan-vovinam-la-nha/c/17333829.epi


TẠI SAO NGUYỄN VĂN CHIẾU VÀ CON TRAI  ĐĂNG KÝ " BẢN QUYỀN SỞ HỮU TRÍ TUỆ" ?


Sở hữu trí tuệ, hay có khi còn gọi là tài sản trí tuệ, là những sản phẩm sáng tạo của bộ óc con người. Ðó có thể là tác phẩm văn học, âm nhạc, phần mềm máy tính, phát minh, sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng công nghiệp, v.v...Quyền sở hữu trí tuệ là các quyền đối với những sản phẩm sáng tạo nói trên. Trong số các quyền này có 2 quyền thường được nhắc đến là quyền tài sản và quyền nhân thân.


Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ là gì?


Các đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ là các loại hình sáng tạo khác nhau mà con người nghĩ ra. Các đối tượng này cùng với chủ thể của quyền sở hữu trí tuệ là mục tiêu bảo hộ của Hiệp định TRIPS và các điều ước quốc tế khác.


Người ta đã nhóm các loại hình sáng tạo của con người thành một số loại đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ sau đây:

- Bản quyền
- Bằng sáng chế
- Thương hiệu
- Kiểu dáng công nghiệp
- Sơ đồ bố trí mạch tích hợp
- Chỉ dẫn địa lý

Ngoài bản quyền, các quyền còn lại được gọi chung là quyền sở hữu công nghiệp. Tại Việt Nam, các vấn đề về bản quyền do Cục Bản quyền Tác giả (Bộ Văn hóa – Thông tin) xem xét giải quyết. Các quyền còn lại thuộc phạm vi quản lý của Cục Sở hữu Trí tuệ (Bộ Khoa học và Công nghệ).

Thực chất của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là gì?

Từ góc độ vật chất, bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ là nhằm đảm bảo cho người sáng tạo có thể khai thác giá trị kinh tế từ các sản phẩm sáng tạo của mình để bù đắp lại công lao sáng tạo. Việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ luôn gắn với thời hạn bảo hộ. Ví dụ tác phẩm điện ảnh được bảo hộ 50 năm, thiết kế bố trí mạch thích hợp có thời hạn bảo hộ là 10 năm. Hết thời hạn này, các sáng tạo trở thành tài sản chung của nhân loại và tất cả mọi người có thể khai thác, sử dụng mà không phải xin phép hoặc trả thù lao cho người sáng tạo.


Đây chính là lý do những Judas trong gia đình Nguyễn văn Chiếu đã cố gắng bất chấp dư luận trong môn phái hoàn thành việc đăng ký " bản quyền sở hữu trí tuệ" về cái phù hiệu của môn phái. Gia đình võ sư Nguyễn văn Chiếu là những Judas thời đại nổi cộm hơn Judas của thế kỳ thứ I sau công nguyên.

Chân dung của cha con  Nguyễn văn Chiếu và gia đình chỉ là những kẻ phản thầy, phản môn ăn cắp trí tuệ của võ sư sáng tổ và tập thể võ sư tiền bối trong Hội Đồng Võ Sư VVN năm 1964. Đó chính là sự đóng góp lớn lao về trí tuệ của hai chưởng môn đòi I Lê Sáng và Chưởng môn đời II. Lấy bản gốc của môn phái tạo ra dị bản khác để làm của riêng đã thể hiện rỏ bản chất tham lam che khuất đi lương tâm của một môn sinh Việt Võ Đạo. 

Phản môn, bán thầy bán bạn, bán chúa...là hiện tượng xấu xuất hiện trong bối cảnh chính trị thay đổi hay xáo trộn. Nhưng với Vovinam là một hiện tượng mói lần đầu xuất hiện trong môn phái kể từ ngày có cuộc biến động chính trị vào tháng 4/1975, đảng công sản quốc doanh hóa bô môn Vovinam. Từ đó hàng ngũ Vovinam đã ngán ngẫm với thế thái nhân tình của những võ sư và HLV đã bứng gốc trái tim từ ái để giao nạp cho đảng cs, làm món quà tiến thân vào kiếp là Osin cho giặc cộng., đám Judas này quay mặt lại với môn phái và đồng môn. Ngoài ra csVN còn dùng bộ phận chân rết là Hội Đồng Võ Sư Tương trợ Hải Ngoại làm bình phong để thi hành nghị quyết 36/TW/ĐCSVN cho chiếu bài hòa giải hòa hợp vói các đồng môn Vovinam ở Hải Ngoại. Một chiến lược khá tinh vi dùng để  thôn tính luôn thành trì cuối cùng Vovinam thuộc Tổng Liên Đoàn VVN-VVĐ Thế Giới ( TLĐ VVN-VVĐ-TG) do các cao đồ của môn phái Vovinam trước 1975 thành lập ở Hải Ngoại và đó cũng là thành trì của những môn sinh Vovinam chính thống không thống thuộc sự điều hành của csVN - nằm trong kế hoạch thiên đô của chưởng môn đời hai Trần Huy Phong, để tách VVN khỏi vòng kim cô của đảng csVN và tồn tại cho đến khi nào cộng sản bị diệt vong.

Để phân biệt được các chân rết của cộng sản ở hải ngoại, chúng tôi kêu gọi các môn sinh đừng chú ý đến các là cờ vàng 3 sọc đỏ treo trong các võ đường hay trong các buổi biểu diển của VVN trước cộng  đồng ngưới Việt hải Ngoại, rồi cho đó là chống cộng, đâm đầu chạy theo là sa bẩy cộng sản. Cách hay nhất là nhìn các văn bản, văn thư  hành chánh của họ xử dụng:
1. Nếu Họ thuộc Vovinam Quốc Doanh là trên các văn bản đều có chử Liên Đoàn VoViNam Việt Nam, phía trên là Bộ Văn Hóa TT và Du Lich.

2. Nếu là trá hình, thì họ sẽ dùng chân rết là  Hội Đồng Võ Sư Tương Trợ Hải Ngoại cấp để phổ biến các văn thư văn bản sinh hoạt của Vovinam ở Hải Ngoại.

3. Còn riêng hàng ngũ Vovinam không thống thuộc sự điều  hành của cộng sản, đó gọi là TỔNG LIÊN ĐOÀN VOVINAM-VIỆT VÕ ĐẠO THẾ GIỚI (TLĐVVN.VVĐ-TG).Đây là bộ phận hoàn toàn khọng nằm dưới sự chỉ đạo của Hội Đồng Chưởng Quản Môn Phái, Hội Đồng Tương Trợ Hải Ngoại và Liên Đoàn VVN-VN hay Quốc tế.

Đây là danh sách các võ sư thuộc TLĐVVN-VVĐ/TG, qúi vị có thể tham khảo trong danh sách các võ sư đang hoạt động ở Hải Ngoại, nếu không có tên trong danh sách này, tức là họ thuộc hệ thống doanh của csVN. Ngoại trừ trường hợp của các võ đường trực thuộc Võ Sư Trần văn Bé và Nguyễn Văn Đông ở Hoa Kỳ , vì các võ đường cũng không hoan nghênh việc cộng tác với cộng sản VN.

Các võ sư Niên Trưởng phải bỏ nước xin tị nạn tại các quốc gia tự do gồm: Nguyễn Dần (bào đệ Vs Sáng Tổ Nguyễn Lộc), Hà Trọng Thịnh (Can), Bùi Thiên Nghĩa (Aus), Nguyễn Văn Thư (Usa), Trần Đức Hợp (Usa), Lê Trọng Hiệp (Usa), Nguyễn Văn Cường (Usa), Ngô Hữu Liễn (Usa), Phan Quỳnh (Usa), Phạm Hữu Độ, Lê Văn Phúc (Usa)… 
Các võ sư cao cấp thời 1975 Trần Huy Quyền (Aus), Nguyễn Văn Thông (Aus), Lê Công Danh (Aus), Trần Văn Bé (Usa), Nguyễn Xuân Ngọc (Usa), Phùng Mạnh Tâm (Usa), Nguyễn Văn Đông (Usa), Trần Văn Trung (Can), Nguyễn Hữu Tô Đồng (Can), Phạm Đình Tự (Can), Nguyễn Tiến Hoá (Usa), Huỳnh Trọng Tâm (Usa), Đặng Hữu Hào (Đức)

Các võ sư, huấn luyện viên trẻ thời 1975 : Lê Thành Nhân (Aus), Phạm Văn Bảo (Usa), Nguyễn Văn Phụng (Usa), Trần Mỹ Đức (Usa), Tạ Văn Lương Việt (Usa), Trần Văn Vịnh (Usa), Nguyễn Thế Hùng (Usa), Võ Trung (Usa), Võ Thành Long (Usa), Võ Ước (Usa), Bùi Khắc Hùng (Usa), Nguyễn Chính (Usa – con ruột của Vs sáng tổ Nguyễn Lộc), Nguyễn Quân (Cháu ruột của Vs sáng tổ Nguyễn Lộc), Phạm Văn Thành (Usa), Nguyễn Văn Hoàn (Usa), Phạm Phú Thành (Usa), Lê Huy Chương (Usa), Lê Đoàn (Usa), Nguyễn Văn Nga (Usa), Lê Quang Liêm (Usa), Trần Văn Hoài (Usa), Đỗ Anh Tuấn (Usa), Trần Bảy (Usa), Huỳnh Thu Hà (Usa), Nguyễn Văn Kính (Usa), Lê Tấn Khanh (Usa), Tôn Thất Lăng (Usa) … Nguyễn Tiến Hội (Đức), Nguyễn Thành Xê (Đức), Nguyễn Hữu Sang (Ý), Nguyễn Điện (Pháp), Nguyễn Cao Khanh (Can), Phạm Ngọc Danh (Can) 


Đọc thêm:

1.ĐÔI ĐIỀU SUY NGHĨ VỀ CÁO TRI CỦA HỘI ĐỒNG CHƯỞNG QUẢN MÔN PHÁI VOVINAM QUỐC DOANH
http://lybichthuy.blogspot.de/2016/08/oi-ieu-suy-nghi-ve-cao-tri-cua-hoi-ong.html
2 Vovinam một con đường hai lối rẻ
http://lybichthuy.blogspot.de/2015/11/vovinam-viet-vo-ao-mot-con-uong-hai-loi_4.html

3.VOVINAM RỒI SẼ ĐI VỀ ĐÂU?
http://lybichthuy.blogspot.de/2017/05/vovinam-roi-se-i-ve-chieu-ngay-652017.html

4.MÔN SINH VOVINAM LÀM GÌ ĐỂ PHỤC VỤ DÂN TỘC VÀ NHÂN LOẠI ?
http://lybichthuy.blogspot.de/2016/05/mon-sinh-vovinam-lam-gi-e-phuc-vu-dan.html

Hậu bối Võ thị Linh 24.6.2017

Thứ Năm, 22 tháng 6, 2017

SỰ DÃ MAN THÔ BỈ CỦA TÀ QUYỀN

CỘNG SẢN VỚI DÂN OAN TRẦN NGỌC ANH

Theo lời kể của Cô Trần Ngoc Anh, dân oan trú tại tổ 4, ấp II, xã Hòa Hội, huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rỉa Vũng Tàu , năm 1976 Đảng Cộng sản Việt Nam bắt Gia đình tôi chuyển lên huyện Hòa Hội từ, trong chương trình đi “vùng kinh tế mới”. Gia đình cô đã vất vả nhiều năm tròi khai quật được 11 hecta đất từ những ngọn đồi hoang vu thành đất canh tác lâm nghiệp để sinh sống. Đến năm 1993, chính quyền cộng sản đã thu lại số đất đó với lý do: “thu hồi đất nhà nước để trồng rừng” (?!). 

1000 hộ dân trong khu vực đó đã bị công an, an ninh, bộ đội đến càn phá hoa màu và bắt bỏ tù tất cả những người chống cự lại sự cưởng chiếm ngang ngược đó. Từ sau sự cưởng chiếm trái phép đó gia đình cô và các nạn nhân khác đều đã gặp khó khăn về vật chất vì tà quyền cộng sản đã cướp đi nguồn kinh tế chính yếu, thu nhập của gia đình cô và các nạn nhân khác ngày càng cạn dần. Tà quyền cộng sản tại đây rất lộng hành và ngang ngược cướp công canh tác của tất cã người dân nơi đây bất chấp sự phản đối của người dân vì bọn tham quan đều có tự tin nơi cây dù của Đảng csvn che từ phía trên. Mặc cho dân ra sao thì sao, chúng vẩn tàn nhẩn cướp sạch sành sanh. Thế mới biết:

Tiến về Sài Gòn quan chiếm nhà mặt tiền 

Tiến về Sài Gòn quan chiếm nhà thật to 
Tiến về Sài Gòn, giải phóng đời quan...

Hiện tượng giải phóng miền nam sau tháng 4 /1975 là phải cướp sạch, không chừa thứ gì. Nói như Nguyễn Hộ: "Nhà Ngụy ta ở, vợ Ngụy ta lấy, con Ngụy ta sai!"
Khu đất mà nhà cầm quyền tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu chiếm đoạt của dân oan ở huyện Xuân Mộc với hơn 4000 hecta. Những lô đất đó, sau khi lấy được của dân, các cán bộ địa phương đã chia chác với nhau. Sau đó, bọn người này phá những cây điều của dân đã trồng để trồng lại cây điều mới, cây nhãn, cây cao su,..để tư lợi cho mình, theo lời cô Ngọc Anh kể.
Cô Ngọc Anh cho biết tiếp: Năm 2009, tôi đã đi khiếu kiện đòi lại quyền lợi cho gia đình, sau khi phát hiện cán bộ lâm trường tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu đều có rất nhiều lô đất từ vụ càn quét năm 1993 (riêng Bộ chỉ huy Quân sự Tỉnh Bà Rỉa là 300 hecta đất) nhưng khi ra đến Hà Nội, ngay lập tức tôi đã bị công an Hà Nội đánh đập giã man. Ngày hôm khi tôi muốn tới để gặp ông Nguyễn Tấn Dũng để thưa chuyện về vấn đề tham nhũng và các báo cáo gian của các cấp chính quyền tỉnh Bà Rịa, thì đã bị công an bắt về trại Họa Lò.
Thế là từ hành trình đi đòi công lý, cô đã bị bắt giam, bị đánh đập, ngược đãi trong chốn lao tù. Truóc sụ trù dâp ngược đãi của các cán bộ côn an cộng sản tưởng rằng người phụ nữ như cô sẽ bị chùn bước rồi bõ cuộc khiếu kiện giửa chừng. 


Nhưng không! Cô Ngọc Anh vẫn đấu tranh kiên cường cho quyền lợi của mình, cho những người dân oan đồng cảnh ngộ, và đấu tranh cho cả những người bạn tù của cô. Có lần cô Ngọc Anh đã cắt tay để lên án sự độc tài, tàn ác, vô nhân đạo của công an trại giam khi họ ép cung cô phải ký giấy, hoặc lăn dấu tay nhận tội trong những lúc sức khỏe rất tồi tệ trong lao tù cộng sản. Cô cũng từng chịu sự tra tấn rất tàn khốc như thời Trung Cổ của côn an cộng sản, 10 tên côn an từng đấm đá cô Ngọc Anh như bao cát để tập của các võ sĩ quyền anh, bọn khốn kiếp này từng đạp vào vùng kín của cô, đến khi ngưng tra tấn thi nơi này luôn bị rỉ máu. Đúng là thứ súc vật kinh khiếp nhất chỉ tìm thấy trong hàng ngũ bọn côn an cộng sản thời nay.

Tuy bị bạo hành liên tục bởi côn an cộng sản nhưng cô vẩn tiếp tục cùng với bà con dân oan tại các tỉnh Miền Nam đáp tàu ra Hà Nội để khiếu kiện việc Gia dình cô đã bị chính quyền Tỉnh Bà Rịa – Vũng tàu cưỡng chiếm đất canh tác hợp pháp, cướp đi nguồn kinh tế sống còn duy nhất của gia đình cô .
Đây là bài phỏng vấn của đài RFA:


Được biết Cô Trần Ngọc Anh cũng là một trong số những Dân Oan đã xây dựng Phong Trào Liên Đới Dân Oan Tranh Đấu Việt Nam ngày 22-12-2013, bản Tuyên Bố về chủ trương của PT vẫn luôn hiện ra ở cột bên phải của trang FB (phây búc) tên PHONG TRÀO LIÊN ĐỚI DÂN OAN VIỆT NAM - trang FB này được lập vào tháng 6-2014 cho tới nay. Trước những sự đàn áp, trù dập, đánh đập nhiều khi dở sống dở chết rồi tưởng chừng tinh thần của cô sẽ sẽ xuống dốc hay bị cào bằng bằng bạo lục, nhưng cô vẩn tiến bước, quyết không lùi bước. Thế nên năm 2016, Mạng Lưới Nhân Quyền ra thông báo trao giải thưởng nhân quyền 2016 cho bà Trần Ngọc Anh, Cấn Thị Thêu, LS Võ An Đôn và tổ chức “Mạng lưới blogger Việt Nam”
Phong Tào Dân Oan của cô Ngọc Anh chẳng những tranh đấu đòi Công Lý và Nhân Quyền cho chính mình, mà các thành viên Phong Trào cũng đều ý thức sâu sắc về tư cách là con dân Việt Nam nên luôn có bổn phận và trách nhiệm đóng góp với toàn dân trong việc gìn giữ bảo vệ đất nước trước dã tâm của thế lực ngoại xâm hiện nay là Tàu cộng.
Cô Ngọc Anh và phong Trào Dân Oan luôn thể hiện quyết tâm bảo vệ Tổ quốc Việt Nam bằng các hoạt động như tổ chức xuống đường, hoặc tham gia cùng biểu tình với các đoàn thể bạn và quần chúng để chống Tàu cộng xâm lược, đồng thời lên án nội thù là tập đoàn tà quyền cộng sản phản quốc hèn với giặc ác với dân, đang bán rẻ đất nước Việt Nam do Tổ Tiên.

Cô đã nhiều lần ra Hà nội để gõ cửa các cơ quan phụ trách về chống tham nhũng, nhưng lần nào cũng bị từ chối không tiếp nhận đơn của chị, và họ yêu câu chị về địa phương dể khiếu nại. Cô Ngoc Anh đã bị công an thanh phố Hò chí Minh cũng như công an tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu đánh đập chị một cách dã man. Những hình ảnh kèm theo bài viết này cho thấy hành động man rợ của tà quyền csVN trong mổi lần tra tấn và đánh đập cô Trần Ngọc Anh.
Vào ngày ngày 20 tháng 01.2009 Toa Án Hà Nội đã kết án Dân Oan Trần thị Ngọc Anh, Tỉnh Bà Rịa –Vũng tàu với 15 tháng Tù về tội „ gây rối trật tự công cộng“ (?!). Đồng thời tà quyền csVN đã vu cáo và bịa đặt cho rằng “Phong Trào Cách Mạng Dân Oan Phục Quốc Cứu Nước, lập Chính Quyền Mới do một người tên là Trần Ngọc Anh ở Vũng Tàu thành lập từ tháng Tư 2014.
Sụ thô bỉ của tà quyền cộng sản là để che đậy hành động cướp giật tài sản hợp pháp của cô Trần Ngọc Anh và gia đình cũng như các dân oan khác, nên chúng lập sẳn một bản án ngụy tạo để để bịt miệng các dân oan và những người yêu nước. Tòa án Hà Nội kết án cô Trần Ngọc Anh không khác gì bản án oan của cựu Đại Úy Nguyễn hữu Cầu, người tù thế kỷ với tội tử hình, sau giãm xuống chung thân, cuối cùng còn bị nhốt 37 vì sự can thiệp mạnh mẽ của quốc tế. Ông bị ở tù vì cái tội tố cáo tên Viện Trưởng Viện Kiễm sát Nhân dân tỉnh Kiên Gian về tội hãm hiếp bốn cô gái đang ở tù vì tội vượt biên. Cái bỉ ổi của các quan tham, quan dâm ô trong hàng ngũ đảng csVN là như vậy đó! 

Khi một đất nước đầy sâu mọt lên làm người thì người dân thấp cổ bé miệng không bao giờ đòi được công bằng, công lý cho chính mình, người thân cũng như công bằng xã hội mà mình đang sống. Tuy thấp cổ bé miệng nhưng tinh thần bất khuất không bị sói mòn với cái đau của thể xác.

Trước nghịch cảnh đầy cam go hiểm hóc

Lòng không hề chùn bước hoặc kêu ca
Dưới tra tấn của đòn thù hung ác
Đầu máu tuông không cúi gục bao giờ.

Giữa xứ sở đầy hờn căm nước mắt

Trong quê hương ngập bóng tối kinh hoàng
Ta đã sống kiêu hùng và bất khuất
Mặc bao năm khủng bố lũ tham tàn.

(Bản dịch từ bài thơ ‘Invictus’ của William Ernest Henley -Kẻ Bất Khuất?)
Tôi vì xúc động trước những oan khiên, những nổi đau đớn thể xác mà cô Trần Ngọc Anh phải chịu đựng trước đòn thù của bọn ác ôn tà quyền cộng sản, nên viết bài này để chia sẻ với cô đồng thời kêu gọi đồng bào chúng ta trong và ngoài nước , những ai còn quan tâm tới những người tùng hy sinh cho việc tái lập Nhân và Dân quyền trên quê hương đầy đau khổ của chúng ta ngày hôm nay.
Chúng ta, xin hãy cùng nhau để tâm tới ác chiến sĩ đấu tranh cho công bằng xã hội, công bằng cho chính mình....cho những người dân oan khác chung quanh xin hãy cùng nhau chia sẻ với cô bằng mọi cách có thể, để an ủi, để chung vai với cô trong tinh thần" một con ngựa đau cã tàu bỏ cỏ". Tôi được biết, qua lời tâm sự của cô mấy ngày vừa qua trên FB, hiện tình trạng sức khỏe của cô không được ổn định lắm sau những trận đòn thù của tà quyền cộng sản, hai mắt của cô hiện đang yếu dần vì ảnh hưởng bởi những lần tra tấn quá dã man của côn an cộng sản Bà Rịa, Sài Gòn và Hà Nội. Những ai có lòng xin hãy liên lạc trực tiếp với cô Trần Ngọc Anh qua:
1. Điện thoại: 0165-732-6549

2.Trần Ngọc Anh - năm sinh 6-6-1966. Hiện cư ngụ tại Tổ 4 ấp 2 xã Hòa Hội - Huyện Xuyên Mộc - Bà rịa Vũng Tàu

Riêng cháu chỉ biết bày tỏ sự kính mến và ngưởng mộ người phụ nữ kiên cường bất khuất Trần Ngọc Anh, trước bọn bán nước buôn dân, cướp ngày (tà quyền cs), bằng bài viết này để chia sẻ cùng cô. Chúc cô chân cứng đá mềm!!
Vo Thilinh 22.6.2017

Thứ Bảy, 17 tháng 6, 2017

87 NĂM KỶ NIỆM NGÀY ĐAU THƯƠNG CỦA
 DÂN TỘC (17.6.1930-17.6.2017)
Người Thứ 13 bước lên máy chém của thực dân Pháp cũng là người cuối cùng của ngày hành quyết 17.6.1930 mà thực dân Pháp thực hiện để thi hành bản án tử hình của hội đồng đề hình gồm: Đảng trưởng Nguyễn Thái Học và 12 đồng chí của Việt Nam Quốc Dân Đảng của ông. Ông NGUYỄN THÁI HỌC, được thực dân dẫn từ nhà giam ra lần thứ 13. Người anh hùng dân tộc ấy với bộ râu quai nón, mỉm cười, đưa cặp mắt sáng quắc nhìn bốn phía, nghiêng mình chào đồng bào lần cuối cùng; hô to “VIỆT NAM MUÔN...” thì Công sứ De Bottini vẫy tay lần thứ 13, đầu NGUYỄN THÁI HỌC rơi.

MƯỜI BA NGỌN ÐUỐC 

( Thơ Vĩnh Nhất Tâm)
Mười Ba Ngọn Ðuốc ghi trang sử

Một nước hùng anh rạng cõi Ðông
Dù đã thăng trầm qua mấy bận
Quyết không hàng giặc bỏ non sông

Bước đi dõng dạc, chân xiềng xích

Máy chém đầu rơi, phụt máu đào
Vừa lúc ánh dương bừng thức dậy
Hào khí lưu mãi đến ngàn sau.

Ðã non thế kỷ không ngưng nghỉ

Từng lớp... vì dân đổ máu đào
Tiếp tục đấu tranh vì chính nghĩa
Tinh thần YÊN BÁI dưới trời cao.


NHỮNG NGƯỜI HÙNG BẤT TỬ TUẨN QUỐC NGÁY 17.6.1930:
1- Nông Dân: BÙI TƯ TOÀN

2- Binh Ðoàn Yên Bái: BÙI VĂN CHUẪN
3- Binh Ðoàn Yên Bái: NGUYỄN AN
4- Thợ Hồ: HÀ VĂN LẠO
5- Binh Ðoàn Yên Bái: ÐÀO VĂN NHÍT
6- Binh Ðoàn Yên Bái NGÔ VĂN DU
7- Binh Ðoàn Yên Bái: NGUYỄN ÐỨC THỊNH
8- Binh đoàn Yên Bái: NGUYỄN VĂN TI ỀM
9- Binh đoàn Yên Bái: ÐỖ VĂN SỨ
10- Binh đoàn Yên Bái: BÙI VĂN CỬU
11- Học Sinh: NGUYỄN NHƯ LIÊN
12- Nhà Cách Mệnh: PHÓ ÐỨC CHÍNH

Họ đã nằm xuống khi cuộc tổng khởi nghĩa Yên Bái ngày 10.2.1930 bị thất bại, họ đã nằm xuống để cuộc cách mạng dân tôc có thêm năng lượng để phát sáng. Cái chết của họ đã làm rơi lệ đồng bào cã nước trước khí khái kiên cường và can đãm của các anh hùng dân tộc đã tuẩn quốc. Những người coi cái chết tự lông hồng.

Khóc Liệt Sĩ
Tác giả: Nhượng Tống

Nhục mấy trùng cao ách mấy trùng

Thương đời không lẽ đứng mà trông?
Quyết quăng nghiên bút xoay gươm súng
Đâu chịu râu mày thẹn núi sông.
Người dẫu chết đi lòng vẫn sống
Việc dù hỏng nữa tội là công
Nhờ lời di huấn cơn lâm biệt,
Cười khóc canh khuya chén rượu nồng

Tuy cuộc cách mạng dân tộc do VNQDĐ chủ trương bị thất bại, nhưng không vì thế mà VNQDĐ biến mất trong công cuộc thay đổi bô mặt xã hội đúng với chủ trương ban đầu của đảng đưa ra ra đó là: Dân Tộc Độc Lập-Dân Quyền Tự Do - Dân Sinh Hạnh Phúc. Ngày nay đảng viên Việt Quốc vẩn âm thầm chiến đấu trên mọi mặt trận để nhanh chóng cùng với toàn dân kết thúc công cuộc cứu nước đã kéo dài quá lâu trên quê hương chúng ta.
Cuộc cách mạng dân tộc vẩn tiếp tục đi tới cho tới khi nào trên quê hương chúng ta không còn là một đất nước với sự độc tài độc đảng năm quyền cai trị mà không qua bầu cử tự do, không còn kiểu dân chủ XHCN của csVN thiết lập, không còn bất công, không còn giai cấp dân oan trên 3 miền đất nước, không còn cảnh tàu lạ đâm tàu của ngư dân trong vùng biển thuôc chủ quyền VN...và những vùng biển đảo, Ải Nam Quan, 1/2 thác Bản Giốc, 11.000km vùng biển thuộc khu vực Bắc Bộ được hoàn lại cho VN. Và đất nước VN tự do sẽ được thành lập trên nền tãng tứ quyền phân lập về Lập Pháp, Hành Pháp, Tư Pháp và đệ tứ quyền là Báo Chí phải là những cơ quan độc lập với chính quyền, có như thế mới bảo đảm sinh hoạt dân chủ được thăng tiến.
Chính vì những mục tiêu cao cả đó nên trong suốt chiều dài thành lập VNQDĐ hàng ngàn hàng chục ngàn đảng viên đả nằm xuống hoặc đã chết trong các ngục tù của thực dân và cộng sản.

Một năm qua VNQDĐ đã hoàn thành rất tốt đẹp việc thống nhất toàn bộ các cơ sở VNQDĐ và đang chấn hưng để tạo niềm tin vững chắc cho các chính đảng quốc gia đang song hành trong công việc cứu nước. Kỷ niệm ngày tang Yên Bái năm 2017, chúng tôi không quên lời đảng trưởng Nguyễn thái Học nhắn nhủ với các đảng viên Việt quốc còn sống sau cuộc tổng khởi nghĩa 10.2.1930 và đồng bào:
“…CHÚNG TÔI ĐI TRẢ NỢ NƯÓC ĐÂY,

CÁC ANH EM CÒN SỐNG CỨ NGƯỜI NÀO VIỆC ẤY,
CỜ ĐỘC LẬP PHẢI NHUỘM BẰNG MÁU,
HOA TỰ DO PHẢI TƯỚI BẰNG MÁU!
TỔ QUỐC CÒN CẦN ĐẾN SỰ HY SINH CỦA CON DÂN NHIỀU HƠN NỮA!
RỒI THẾ NÀO CÁCH MẠNG CŨNG THÀNH CÔNG!”

Một nén tâm hương dâng lên chư vị tiền bối và các đảng viên VNQDĐ đã hy sinh cho sụ nghiệp Dân Tộc Độc Lập-Dân Quyền Tự Do -Dân Sinh hạnh Phúc.
Nguyễn Thị Hồng 17.6.2017

Thứ Ba, 13 tháng 6, 2017

Mặt trận Gươm Thiêng Ái Quốc và Thiên Đàng Đảo



Drive them crazy with Psywar. 
(William Colby)


            Cuối năm 1962, William Colby, trưởng lưới CIA tại Sàigòn, về Hoa Thịnh Đốn phụ trách Nha Giám Đốc Kế hoạch CIA Vùng Đông Á. Tổng thống Kennedy ra lệnh một mặt, điều nghiên lại các họat động bí mật thất bại của cơ quan này ở Bắc Việt và mặt khác, "gấp tạo bất ổn trên đất địch như địch đang làm ở Miền Nam".  

 Nhận thức CSVN - cũng như các nước xã hội chủ nghĩa khác - nơm nớp lo sợ nội loạn, gián điệp và phá họai, Colby chủ trương cần "làm họ điên đầu bằng cách leo thang tâm lý chiến,".  

 Thời Chiến tranh lạnh, tâm lý chiến gồm có lãnh vực tuyên truyền (radio, truyền đơn, truyền hình, báo chí...) và những kỹ thuật khác thuộc khoa tâm lý (dựng ra những mặt trân hay tổ chức đối kháng giả tạo...). Colby chọn Herb Weisshart, từng phụ tá cho ông ở Sàigòn và làm việc trước đây trong vùng Đông Bắc Á châu, thay mặt CIA trong chiến dịch nàỵ Chủ đích của tân chiến dịch là gì? "Buộc Bắc Việt xoay về bảo vệ hậu cần hơn là dồn nổ lực viễn chinh ở Miền Nam. You couldn’t expect much more, Không còn muốn gì hơn!", Herb Weisshart xác nhận như thế.  
 
image053
Năm 1963, theo chương trình chuyển tiếp Switchback, Ngũ Giác Đài thay CIA phụ trách chiến tranh bí mật chống Hà Nội vì "Quân đội có tiền, nhân lực và khí cụ." Herb Weisshart và một số nhân viên CIA được biệt phái về Phái bộ Quân sự HK tại VN, Military Assistance Command Vietnam, hay MACV, để xúc tiến kế họach OP 39 tại cơ quan Nghiên cứu và Thám sát SOG, Studies & Observation Group, do Đại tá Clyde Russell. chỉ huỵ cho đến ngày chấm dứt vào tháng 11.1968, dưới thời Tổng thống Lyndon Johnson, kế hoạch OP 39., (còn được mệnh danh, Chương trình dương đông kích tây, Diversionary Program) đã thực hiện một số công tác khá độc đáo về chiến tranh tâm lý chống Bắc Việt.  


 Căn cứ vào hồ sơ vừa giải mật của Ngũ Giác Đài, quyển sách "The Secret War Against Hànội" của Richard H. Shultz, Jr., giáo sư chính trị học tại Fletcher School of Law and Diplomacy, đã phân tích khá tinh vi những công tác ấỵ Mặt trận Gươm Thiêng Ái Quốc, Sacred Sword of the Patriots League.  


Một trong những mục tiêu phức tạp nhất của kế hoạch OP 38 là thử cấy trong tâm trí người dân Miền Bắc ý niệm một tổ chức chống cộng, Về tình báo, tổ chức này cần dựa vào một sự tích khả tin. Weisshart đã phỏng vấn nhiều người Việt và nhờ họ, được biết chuyện "kiếm thần" của vua Lê Lợi. 
 Năm 1406, vua Minh xua quân Tàu xâm chiếm và đô hộ VN một cách dã man khiến Lê Lợi, một chủ trại giàu có, khởi nghĩa tại Thanh Hóa. Lê Lợi nhờ có những sáng kiến tuyệt vời về chính trị, tâm lý lẫn quân sự để tạo chính nghĩa và thu hút sự ủng hộ của toàn dân. Sử chép rằng ngài dùng một bút nhọn thấm mỡ súc vật viết "Lê Lợi là vì vua" trên các lá cây trong rừng. Khi kiến ăn hết mỡ, câu này lộ ra, dân chúng cho rằng đây là điềm Trời. Họ tung hô Lê Lợi và ào ạt tham gia kháng chiến.  


 Vì thế địch quá mạnh, Lê Lợi phải rút vào vùng núi Hà Tịnh để đánh du kích. Năm 1428, quân Minh đại bại, rút lui, Lê Lợi xưng vương với danh hiệu Lê Thái Tổ và thành lập triều đại nhà Lê, trị vì VN hơn ba thế kỷ. Ngoài công trình dựng nước hiễn hách, vua Lê Lợi còn là đầu đề của một huyền thoại khác. Tục truyền rằng một ngày nọ Ngài du thuyền trên Hổ Lục Thuỷ giữa đế đô Hànội, bổng có kim quy nổi lên mặt nước, vua liền phóng kiếm, kim quy lặn mất mang theo thanh kiếm.. Theo dân chúng truyền tụng, Lê Lợi đã nhận thần kiếm để dẹp giặc và thống nhất sơn hà, nay sứ mạng hoàn tất, kiếm phải trả lại Thượng Đế.  


 Để tưởng nhớ câu chuyện vừa nói, Hồ Lục Thủy được đổi tên thành Hồ Hoàn kiếm, The Lake of the Returned Sword. Dân Việt, già trẻ, đều thuộc nằm lòng sự tích, họ hãnh diện về Lê Lợi, người anh hùng quốc gia điển hình, xuất thân từ cái nôi cách mạng Hà Tịnh, đã dùng du kích đuổi kẻ thù nghìn kiếp Trung hoa ra khỏi xứ.  


 Đảng CS cũng kính nể nhưng xếp Lê Lợi sau "Bác" Hồ!  


 SOG chọn cốt chuyện Lê Lợi để đặt tên cho Mặt trận Gươm Thiêng Ái quốc, MTGTAQ, (The Sacred Sword Patriots League, gọi tắt SSPL) vì nghĩ rằng kỷ niệm của vị minh chúa nhà Lê có đủ hấp lực để phát động moat phong trào bí mật chống cộng sản vong quốc và thu hút quần chúng Bắc Việt vẫn câm thù vụ cải cách ruộng đất đẫm máu từ 1953 đến 1956, theo lệnh của Bắc Kinh.  


 SOG sắp xếp lớp lang chi tiết để tạo tính cách khả tin cho tổ chức giả tưởng vừa nói: "Trong phiên Đại hội vào tháng chạp 1961, Mặt Trận đồng thanh bầu Lê Hưng Quốc - nhân vật ma -làm Chủ tịch; Mặt trận ra Tuyên ngôn chống sự can thiệp của tất cả ngoại bang vào nội tình VN và yêu cầu mọi lực lưọng võ trang, cố vấn và ảnh hưởng của các nước ngoài phải rút khỏi hai Miền Nam, Bắc; đặc biệt, Tuyên ngôn đả kích nhóm lãnh đạo Hànội làm tay sai cho Trung cộng, tái diễn trò nô lệ của thời xưa và đẩy đất nước vào thế nạn nhân trong cuộc tranh chấp Mỹ- Hoa. 


 Kết thúc MTGT kêu gọi Hànội thay đổi gấp chính sách" Về mặt tuyên truyền, MTGT rêu rao không ngừng phát triển mạnh trong lãnh vực chính trị lẫn quân sự, đã cho thành lập nhiều tổ ở khắp nơi và năm 1965, có 10,000 đảng viên, trong đó 1,600 được võ trang. Chứng minh thư có đóng dấu triện "MTGTAQ Xứ Ủy Nam Bộ", do Uûy viên Thường vụ Lê Hùng Cường ký tên, được phát cho một số "cán bộ quân sự nồng cốt... sinh họat với các Tổ Tỉnh trên toàn xứ".  


 Tiến thêm một bước, vào tháng tư 1965, Đài Tiếng nóí của Mặt Trận, Voice of the Secret Sword of the Patriots League,VOSSPL, tự xưng đặt trên vùng núi Hà Tịnh, phát thanh thường xuyên về phiá Bắc Việt. SOG thuê một số phi công gốc Đài loan (từng côïng tác với CIA trong thập niên 50) dùng phi cơ không mang dấu hiệu rải truyền đơn ban đêm trên vĩ tuyến 17. Truyền đơn tung tin có khu giải phóng "dưới vĩ tuyến 19".
image056
            Để bên kia chiến tuyến tin MTGTAQ là một thực thể, kế hoạch OP 39 tổ chức quy mô - như trong phim giả tưởng Hollywood - một vùng tự do, liberated zone. Thiên Đàng đảo, Paradise Island.Làm thế nào cơ quan SOG có thể lập một khu giải phóng cho MTGT khi Hoa Thịnh Đốn từ chối cho phép giữa năm 1963 kế hoạch OPLAN 34A gài du kích vào Bắc Việt? OP 39 giải quyết trở ngại bằng cách chọn dưới vĩ tuyến 17, ngoài khơi Đà nẳng, Cù lao Chàm (được Mỹ đặt tên Paradise Island) và xây cất tại đây những làng giống hệt ngoài Bắc để cài giáo số ngư phủ gốc Bắc bị các thuyền mang cờ MTGT bắt được trong lãnh hải Bắc Việt kể từ tháng 5.1964.   


 Những thuyền này cất dấu tại Đànẳng, làm bằng cây để tránh bị radar địch phát hiện và được điều động bởi nhóm thủy thủ Việt hoá trang. Khi sa vào lưới của SOG, các ngư phủ bị bịt mắt và đưa về đảo. Họ ở đây ba tuần, tiếp xúc với dân làng toàn nói giọng Bắc (để họ có cảm tưởng sống trong một vùng giải phóng ở BV), được cho ăn uống no đủ, săn sóc sức khoẻ chu đáo và, đồng thời, được cung cấp tin tức về tình trạng tham nhũng, hủ hoá và bè phái trong giới lãnh đạo CS.  


Trước ngày bị bịt mắt lại để đưa trở về nguyên quán cũng bằng đường biển, mỗi ngư phủ nhận được một ra dô pin, đã gài sẵn băng tầng Đài Tiếng Nói MTGT, và vài món quà thực dụng như xà phòng, quần aó v.v... Họ được chỉ dẫn cách liên lạc bí mật với những tổ bạn hoạt động tại địa phương.   
image057
Năm 1966, có 353 dân BV được "huấn luyện" tại Thiên Đàng đảo. Từ 1964 cho đến 1968, tổng số lên đến 1.003. Để Hànội đừng khám phá ra mặt thật của kế hoạch, OP 39 áp dụng một số phương pháp khác, với sự đồng ý của Hoa Thịnh Đốn. Thí dụ: Một Toà án MTGT tuyên xử tử hình, vì tội phản quốc, các người bị bắt trong những trận đụng độ giữa thuyền bè Bắc Việt và Mặt trận nhưng sau đó, họ được Măt trận ân xá và cho học tập. Trước ngày hồi hương, họ tuyên thệ trung thành với MT. Một số nhận làm gián điệp và đưa tin. Nếu họ quyết định đào ngũ và rời vĩnh viễn BV thì họ được định cư trong Nam.  

 
image058
Hoa Thịnh Đốn, mặt khác, bác bỏ một số dề nghị "quá khích" của
OP 39 như dùng Đài phát thanh của MTGT cổ võ nổi lọan ở BV và ám sát vài lãnh tụ CS. Đầu năm 1968, Bộ Tư lệnh MACV đưa ý kiến MTGT nên chuyển qua giai đọan tổ chức đánh phá thật sự CS trên phần đất của họ, Toà Bạch ốc cũng không chịu vì bốn lý do: hoạt động bí mật phải phản ảnh chính sách công khai; không thể để tình thế vuột khỏi tầm tay kiểm soát; bị khiêu khích, Hànội sẽ tăng cường mức độ xâm lăng Miền Nam; và Trung cộng không ngồi yên trước cảnh đàn em BV tan rã. 

 Chiến dịch tấn công bằng truyền thanh, truyền đơn và tặng phẩm.  
Ngoài đài Tiếng Nói của MTGT, kế hoạch OP 39 còn xử dụng một số phương tiện truyền thông cho nhiều mục tiêu riêng biệt. Một trong các chủ đích là báo cho dân chúng trên vĩ tuyến 17 biết - để gây hoang mang - có hoạt động chống chính phủ Hànội tại BV. Bằng kỹ thuật đánh lừa mệnh danh snuggling, một đài phát thanh được đặt sát cạnh Đài radio CS Hànội, cùng chung một tầng số và mang cùng một tên, để khuấy phá.  
Tháng 5.1965, Toà Bạch ốc cho thành lập cơ quan JUSPAO, Joint US Public Affairs Office, do Barry Zorthian chỉ huy, để phối hợp tất cả các công tác tâm lý chiến, dân sự và quân sự, kể luôn công tác mật tại BV và dài theo đường mòn Hồ Chí Minh ở Lào và Miên. Juspao điều hành đài rađô Tiếng Nói Tự Do, Voice of Freedom (VOF) phát thanh 75 giờ mỗi tuần bằng 5 ngôn ngữ, chuyên đả phá Radio Hànội và đưa vào BV tin tức của thế giới tự do, tin chiến trường xác thực, chương trình văn hoá và giải trí, bình luận so sánh đời sống hai miền Nam, Bắc… 


 Hệ thống tuyên truyền SOG gồm có Radio Red Flag, mệnh danh là tiếng nói của nhóm chống đối trong đảng CS Bắc Việt. Đài này không gay gắt với Nga sô nhưng chỉ trích mạnh Chính trị bộ ngã theo Bắc kinh đem lại đau khổ và chết chóc cho dân tộc. Ra dô Hồng Kỳ, đặt ở ngoại ô Sàigòn, xử dụng một số cán bộ hồi chánh Việt và kỹ sư Phi Luật Tân. CIA điều hành từ Miền Nam đài phát thanh riêng mang tên Sao Đỏ, Red Star Radio, chủ trương đặc biệt tố cáo Mặt trận Giải phóng Miền Nam là công cụ của CS Bắc Việt.  


 Khẩu hiệu của đài là "Miền Nam của dân Nam". Đài Ra dô Hànội giả áp dụng kỹ thuật điện tử ghosting để phá những buổi phát thanh của địch và thay thế vào đó những tin tức hay chỉ thị trái ngược. Qua chiến dịch Peanuts, nhiều chục nghìn chiếc máy ra dô pin tí hon Nhựt, với tầng số xếp sẵn, được thả dù ban đêm bên kia vĩ tuyến hay đưa vào bằng đường biển, chung với truyền đơn và những gói tặng phẩm đựng viết, đèn cầy, sách..vv..   


Nhiều bức thơ giả mạo được viết và gởi từ Paris, Hongkong, Tokyo, Bangkok... về địa chỉ của một số cán bộ cao và trung cấp CS ở Hànội bịa ra những mối liên lạc mật hay chỉ trích Trung ương Đảng. Cơ quan kiễm duyệt gắt gao của BV có thể sa vào bẩy. Các cán bộ CS hồi chánh ở Miền Nam cũng được khuyến khích viết thơ cho thân nhân trên vĩ tuyến 17 đề cao đời sống ở Miền Nam.  


 Chương trình Soap Chips chuyên lo việc gắn vào xác của chiến binh BV thơ trối trăn (giả) của họ gởi về gia đình, mô tả cảnh sống cơ cực trong Quân đội Nhân dân và thái độ cư xử hống hách của cố vấn Tàu cộng. OP 39 cũng có chương trình Eldest Son mua lại từ quốc gia đệ tam loại súng AK-47 và súng cối 82 ly do Trung cộng chế tạo, để tháo gở ra, gài vào bên trong chất nổ, xong ráp lại để thả dù tại vùng CS ở Lào và Miên. Những võ khí này gây thiệt hại cho dối phương không ít. Trước khi qua đời vào năm 1969, Hồ Chí Minh có lệ hằng năm gởi thơ chúc Tết cán bộ tại ngũ.   


Quần chúng mỏi mệt và oán ghét Bắc kinh vì chiến cuộc kéo dài. Mùa Xuân 1971, OP 39 cho in và phổ biến ở Lào, Miên và Miền Nam 22.000 tấm thiệp ký tên Trường Chinh, nhân vật khét tiếng thân Trung cộng đề cao "trường kỳ kháng chiến nhất định thắng công". Theo sự tiết lộ của Bob Andrews, một chuyên viên Tâm lý chiến, SOG có đề nghị tràn ngập BV bằng giấy bạc giả để làm suy sụp nền kinh tế CS nhưng "thượng cấp" không chấp nhận.  
 

Thẩm lượng kế họach OP 39. Lý do thất bại:
image062
Hoa kỳ đã đầu tư rất nhiều tiền, sáng kiến và kỹ thuật vào tâm lý chiến chống Hànội. Tuy nhiên, phần kết trong phúc trình thẩm lượng tháng hai 1968 của nhóm MACV Ad Hoc Evaluation Group, do Thiếu tướng AR. Brownfield,Jr. chủ tọa, cho biết " Chương trình SOG không rõ ràng và quá rộng, not clear and too broad." Ba Đại tá chỉ huy liên tiếp SOG là Clyde Russel, Don Balckburn và Jack Singlaub cũng thú nhận kế hoạch OP 39 không đem lại kết quả mong muốn. Nếu đào sâu, sẽ thấy nhiều lý do: 


 1 - Thiếu mục tiêu chiến lược, Lack of strategic purpose. Đúng vậy, Hoa Thịnh Đốn không cho phép SOG tổ chức một phong trào chống đối thật sự trên vĩ tuyến 17 hay khuyến khích dân chúng BV hành động. Năm 1956, vì Ngoại trưởng John Foster Dulles chống đối, HK đã bỏ qua cơ hội tổ chức dấy lọan để lật đổ CS Bắc Việt. Chủ trương của Tổng thống Kennedy năm 1961 tạo bất ổn ở Miền Bắc để trả đũa cũng lần hồi xuống giọng. Năm 1963, William Colby đề nghị áp dụng "bài học Hung gia Lợi" ở BV nhưng không được chấp nhận vì sợ Bắc kinh phản ứng. Chính sách "vừa đánh, vừa thủ" của HK làm cho Bob Andrews, một trong chuyên gia điều khiển OP 39, than trách: Think small, don’t think big, because if you think big, you’ll never get it done." 


 2 - Thiếu sự phối trí và bổ sung, lack of coordinated planning and integration, giũa các phần bộ của kế hoạch OP 39 bị chia cách quá đáng, viện lẽ cần tích cực bảo mật. Không có một kế hoạch đầu não não, không ai trong OP 39 thật sự hiểu kế hoạch sẽ dẫøn đến đâu. 


 3 - Nhân sự không có đủ kinh nghiệm về tâm lý chiến và không thông hiểu văn hoá Việt Nam. Quân nhân Mỹ và nhân viên CIA biệt phái qua kế hoạch OP 39 không được huấn luyện thích hơp để thi hành công tác đúng đắn.  


4 - Thẩm lượng không chính xác ảnh hưởng của những cuộc hành quân tâm lý chiến đối với mục tiêu Bắc Việt.  


Trong kế hoạch OP 39, Phòng Sưu tầm và Phân tích, Research & Analysis, có trách nhiệm thu thập, đối chiếu và giải thích tin tức từ Miên Bắc để một mặt, tìm ra các yếu điểm tâm lý của phe địch và mặt khác, ấn định hiệu quả của việc áp dụng kế hoạch.   


Mục đích thứ hai không hề thực hiện được. Bill Rydell, nguời điều khiển chót OP 39, cho rằng sự thẩm lượng này không dễ trong một chế dộ công an trị sau bức Màn sắt. Ít khi đối phương chịu tiết lộ hiệu quả thật sự hay phản đối công khai. 


 Bắc Việt chống trả mãnh liệt.   


Vì bị gián điệp ám ảnh thường xuyên và lo ngại HK tấn công bằng chiến tranh tâm lý nên CS đề phòng bằng nhiều phương thức gắt gao như cho báo giới liên tục kêu gọi dân chúng cảnh tỉnh, siết chặt mạng lưới công an khắp nới, phổ biến sâu rộng tài liệu "Chỉ dẫn và Biên pháp" và ban hành luật phạt tối đa (tử hình, khổ sai) những hành động "phản quốc, phá rối trật tự."  


 Đặc biệt, từ 1965 đến 1967, CS tạo trong xứ một bầu không khí căng thẳng tối đa ố hơn cả tình trạng bị xâm nhập thật sự - để thức tỉnh dân về chiến dịch bí mật của Mỹ. Tháng sáu 1967, hai tờ báo Học Tập và Nhân Dân công khai tố Mặt trận Gươm Thiêng Ái quốc là một tổ chức ma và cấm nhặt quần chúng lén nghe các "đài phát thanh lậu", đọc truyền đơn và nhận các góí tặng phẩm từ bên ngoài. Tuy nhiên có một điều mà Hànội không biết rõ là Hoa Thịnh Đốn không đồng ý cho lật đổ chính phủ CS bằng võ lực.


 Đầu tháng 11.1968, Tổng thống Lyndon Johnson ra lệnh chấm dứt hai kế hoạch OP 39 và OP 34 vì Bắc Việt chiụ bắt đầu nói chuyện hoà bình. 
image063
 Ngũ Giác Đài đợi nhiều thập niên mới bạch hoá hồ sơ chiến tranh bất quy ước chống Hànội sau khi thua cuộc chiến quy ước năm 1975. Đây là một bài học đắt giá khác cho Hoa kỳ bị đánh bại lần đầu tiên từ ngày lập quốc.


 Trong bao nhiêu tính toán sai lầm, ít nữa có một điều mà trùm CIA William Colby đự đoán không trật: Tâm lý chiến đã làm Cộng sản thật sự "phát điên" vì tạo cho họ một cuộc sống ngày đêm hoảng hốt. Cuộc chiến bằng trí óc này đáng lý đem lại kết quả khá hơn nếu thượng tầng lãnh đạo Hoa kỳ quyết tâm đánh để thắng và thông suốt tâm lý Á châu./  
 

Lâm Lễ Trinh