Chủ Nhật, 22 tháng 10, 2017



Tính man rợ của Việt cộng và Tính Nhân đạo của Lính Mỹ sau Chiến tranh Việt nam.

Trong khuôn khổ chuyến tham dự Đối thoại Chính sách Quốc phòng Việt Nam-Hoa Kỳ 2017, từ ngày 15-18/10, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã có hàng loạt cuộc gặp với giới chức Hoa Kỳ, các nghị sỹ Quốc hội, đại diện một số tổ chức của Hoa Kỳ tại Washington nhằm thảo luận các vấn đề hợp tác song phương, thúc đẩy các hoạt động khắc phục hậu quả chiến tranh Việt Nam.


Tại cuộc gặp với Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, ông Matt Pottinger, Giám đốc cấp cao phụ trách khu vực châu Á thuộc Hội đồng An ninh quốc gia Hoa Kỳ chào mừng Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh tới Washington tham dự Đối thoại Chính sách Quốc phòng Việt Nam-Hoa Kỳ 2017, bày tỏ quan tâm tới các nội dung hợp tác giữa hai nước Việt Nam-Hoa Kỳ, trong đó đặc biệt lưu tâm đến vấn đề khắc phục hậu quả chiến tranh tại Việt Nam.


Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã thông báo với ông Pottinger thành công của dự án tẩy rửa chất độc da cam (dioxin) ở sân bay Đà Nẵng, bày tỏ mong muốn với cương vị của mình, ông Pottinger sẽ tiếp tục thúc đẩy các dự án tương tự ở Việt Nam, đặc biệt lưu ý đến dự án tẩy rửa chất dioxin ở sân bay Biên Hòa.
Tại cuộc gặp với Thượng nghị sỹ Patrick Leahy, thành viên cấp cao Ủy ban Chuẩn chi Thượng viện Hoa Kỳ, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh chân thành cảm ơn ông Leahy về những gì ông đã làm cho Việt Nam trong thời gian qua, đặc biệt là sự ủng hộ của ông Leahy đối với dự án tẩy rửa chất dioxin ở sân bay Đà Nẵng đã giúp cho dự án thành công.
Dự án này là biểu tượng của quan hệ hợp tác Việt Nam-Hoa Kỳ nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, mang ý nghĩa nhân đạo to lớn, giúp bảo vệ sức khỏe người dân, đồng thời cũng là một thành công về mặt công nghệ khi đây là dự án xử lý chất không phân hủy trên diện rộng đầu tiên trên thế giới. Ông Leahy chúc mừng sự thành công của dự án tẩy rửa chất dioxin ở sân bay Đà Nẵng, đồng thời khẳng định cá nhân ông rất quan tâm đến dự án tẩy rửa chất dioxin ở sân bay Biên Hòa, cam kết trên cương vị của một thành viên kỳ cựu Thượng viện Hoa Kỳ, ông sẽ làm hết sức mình để dự án đi vào thực tế.
Bên cạnh đó, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã có cuộc gặp Thượng nghị sĩ John McCain, Chủ tịch Ủy ban Quân lực Thượng viện. Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh chuyển lời thăm hỏi của lãnh đạo Việt Nam tới ông McCain, khẳng định Việt Nam coi trọng phát triển quan hệ với Hoa Kỳ.
Ông McCain vô cùng xúc động khi Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh trao lại một số kỷ vật của ông trong thời gian ở Việt Nam cuối những năm 1960, đầu những năm 1970.


Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh thông báo cho Thượng nghị sỹ McCain về kết quả hợp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ về khắc phục hậu quả chiến tranh, trong đó có dự án xử lý chất dioxin tại sân bay Đà Nẵng.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh bày tỏ mong muốn ông McCain, với uy tín của mình, sẽ có tiếng nói với Quốc hội, Chính phủ Hoa Kỳ nhằm thúc đẩy dự án xử lý dioxin tại sân bay Biên Hòa.
Thượng nghị sỹ McCain đã nhắc lại những kỷ niệm tốt đẹp trong những lần thăm Việt Nam, cho rằng hai nước đã và đang hợp tác hiệu quả trên nhiều lĩnh vực, đồng thời khẳng định luôn ủng hộ phát triển quan hệ song phương.
Trước đó, trong cuộc gặp với bà Susan Thorton, Quyền Trợ lý Ngoại trưởng phụ trách châu Á-Thái Bình Dương, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh thông báo cho bà Thorton kết quả cuộc Đối thoại Chính sách Quốc phòng Việt Nam-Hoa Kỳ, hy vọng chuyến thăm Việt Nam và dự Hội nghị cấp cao Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) của Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump vào đầu tháng 11 tới ở Đà Nẵng sẽ thành công tốt đẹp.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh bày tỏ mong muốn bà Thorton sẽ đóng góp vào việc tăng cường quan hệ hữu nghị Việt Nam-Hoa Kỳ, thúc đẩy quá trình hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh.
Bà Thorton khẳng định với cương vị của mình sẽ tiếp tục thúc đẩy hợp tác giữa hai nước trên cơ sở quan hệ Đối tác Toàn diện Việt Nam-Hoa Kỳ.
Cũng trong khuôn khổ chuyến thăm, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã có cuộc gặp bà Gloria D.Steele, Phó Trợ lý điều hành Văn phòng Cơ quan phát triển Hoa Kỳ (USAID) và ông Mark S.Kasman, Chủ nhiệm Văn phòng các vấn đề song phương và khu vực thuộc Cơ quan Bảo vệ Môi trường Hoa Kỳ (EPA).
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh cho rằng trong hơn 20 năm kể từ khi bình thường hóa quan hệ song phương, hợp tác khắc phục hậu quả chiến tranh là một điểm sáng, là một trong những thành công lớn nhất trong mối quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.
Sự hợp tác này đã làm hài lòng chính phủ và người dân của cả hai nước. Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh bày tỏ cảm ơn đối với những hỗ trợ to lớn của USAID đối với sự thành công của dự án tẩy rửa chất dioxin ở sân bay Đà Nẵng cũng như xây dựng bản Đánh giá khảo sát môi trường khu vực nhiễm chất dioxin sân bay Biên Hòa.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đề nghị USAID phối hợp với các cơ quan chức năng của Việt Nam trong việc tổ chức lễ công bố kết thúc thành công dự án tẩy rửa chất dioxin ở sân bay Đà Nẵng đầu tháng 11 tới và tổ chức hội thảo quốc tế về dự án này vào đầu năm 2018.
Đại diện USAID và EPA đều thống nhất với các đề xuất của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, khẳng định USAID và EPA sẽ tích cực thúc đẩy chương trình hành động 3 năm về khắc phục hậu quả chiến tranh ở Việt Nam.
Hai bên thống nhất sớm ký kết Chương trình hành động ba năm khắc phục hậu quả chiến tranh, trước mắt là dự án tẩy rửa chất dioxin ở sân bay Biên Hòa.
Phía Hoa Kỳ cũng sẽ tiếp tục giúp phía Việt Nam nâng cao năng lực, xây dựng chiến lược truyền thông về các hoạt động khắc phục hậu quả chiến tranh để người dân hai nước cũng như thế giới hiểu được các nỗ lực to lớn trong lĩnh vực này của cả hai phía Hoa Kỳ và Việt Nam.
Trong khuôn khổ chuyến công tác tham dự Đối thoại Chính sách Quốc phòng Việt Nam-Hoa Kỳ 2017, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh đã có cuộc gặp bà All Mills Griffiths, Giám đốc Liên đoàn Quốc gia các Gia đình tù nhân chiến tranh và quân nhân Hoa Kỳ mất tích (MIA).
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh thông báo cho bà Griffiths biết Việt Nam trong thời gian qua đã tạo điều kiện tối đa cho các đội tìm kiếm hài cốt và thông tin của hai bên, kết quả thu được rất khả quan.
Trong chuyến thăm Hoa Kỳ mới đây, Bộ trưởng Quốc phòng Ngô Xuân Lịch đã trao cho phía Hoa Kỳ hai hồ sơ về địa điểm tìm kiếm MIA có độ tin cậy cao và trong chuyến thăm lần này, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng tiếp tục trao cho phía Hoa Kỳ hai bộ hồ sơ.
Việt Nam đã phát động phong trào tìm kiếm, thu thập và trao tặng lại các hiện vật liên quan đến quân nhân mất tích trong chiến tranh và thu được nhiều kết quả đáng khích lệ.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh khẳng định việc tìm kiếm thông tin và hài cốt các quân nhân Hoa Kỳ mất tích trong chiến tranh luôn là một trọng tâm chính sách ngoại giao của Việt Nam trong quan hệ với Hoa Kỳ.
Về các lĩnh vực hợp tác khác, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh thông báo cho bà Griffiths biết Việt Nam và Hoa Kỳ đã hoàn thành dự án tẩy rửa chất dioxin tại sân bay Đà Nẵng, cần tiếp tục thực hiện các dự án tương tự mà trước mắt là tẩy rửa chất dioxin ở sân bay Biên Hòa.
Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh khẳng định những dự án như vậy được thực hiện trên tinh thần nhân đạo, là yếu tố bản lề, quan trọng trong quan hệ giữa hai nước, không chỉ là khắc phục hậu quả của quá khứ mà là chìa khóa mở ra tương lai lâu dài của quan hệ Việt Nam-Hoa Kỳ.
Ghi nhận những ý kiến của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, bà Griffiths cho biết tổ chức do bà đứng đầu đánh giá cao và bày tỏ cảm ơn chân thành trước những nỗ lực không ngừng của Việt Nam trong lĩnh vực tìm kiếm MIA.
Bà cũng bày tỏ vui mừng trước những động thái tạo điều kiện thuận lợi mới mà Việt Nam dành cho các đội tìm kiếm hỗn hợp Việt-Hoa Kỳ, hy vọng những động thái này sẽ giúp quá trình tìm kiếm đạt hiệu quả cao hơn, nâng quá trình hợp tác song phương lên một tầm cao mới.
Về hoạt động tẩy chất dioxin ở Việt Nam, bà Griffiths cho rằng đây là hoạt động mang tính chất nhân đạo và tổ chức của bà sẽ làm hết sức để thúc đẩy các giới chức Hoa Kỳ hành động có trách nhiệm trong vấn đề này.
Trong thời gian ở thăm, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh cũng gặp nhóm trợ lý, cố vấn Nghị sỹ các tiểu ban Quân lực và Đối ngoại của Quốc hội Hoa Kỳ.
Tin, ảnh: Đoàn Hùng (P/v TTXVN tại Washington)

Cựu binh sĩ Mỹ trả mũ cối của liệt sĩ Việt Nam sau 46 năm


Dân trí- Một nhóm cựu binh sĩ Mỹ đã đích thân tới tỉnh Phú Thọ để trao lại chiếc mũ cối có khắc hình con chim bồ câu cho gia đình một chiến sĩ Việt Nam hy sinh trong chiến tranh.
Bốn cựu binh sĩ hôm 14/1/2014 đã trả lại chiếc mũ cối cho gia đình liệt sĩ Bui Duc Hung tại xã Hương Nộn, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ trong một buổi lễ thể hiện tinh thần hòa bình và tái hòa giải.
"Đây là một khoảnh khắc rất thiêng liêng với đại gia đình chúng tôi", ông Bui Duc Duc, 52 tuổi, cháu của liệt sĩ Hung, nói tại buổi lễ.
Photo: Chiếc mũ của liệt sĩ Bui Duc Hung được đặt cạnh tượng Bác Hồ trong lễ trao trả kỷ vật.
Ông Duc đã xúc động khi chiếc mũ cối được đặt trên bàn thờ gia đình của nhà ông. Các cựu binh sĩ cùng các cán bộ địa phương và khoảng 100 người dân đã tham gia buổi lễ trao trả kỷ vật.
"Chúng tôi coi chiếc mũ cối này là một phần của liệt sĩ Hung và chúng tôi sẽ giữ nó như một lời nhắc nhở cho các thế hệ tương lai của gia đình", ông Duc nói thêm.
Vào năm 1968, John Wast, một binh sĩ trẻ người Mỹ, đang lục soát trận địa để tìm vũ khí và thông tin tình báo thì nhìn thấy chiếc mũ cối có khắc hình con chim bồ câu. Wast buộc chiếc mũ vào ba lô và 5 tháng sau đó đã mang nó về Mỹ như một kỷ vật chiến tranh. Wast đã đặt chiếc mũ trên giá sách suốt 46 năm qua.
Khi một tổ chức từ thiện của các cựu binh Mỹ tìm gặp Wast và hỏi ông liệu có muốn trả lại chiếc mũ cho gia đình chủ nhân cũ hay không, ông Wast đã đồng ý. Tổ chức từ thiện sau đó đã tìm được gia đình của liệt sĩ Bui Duc Hung, người hi sinh trong chiến tranh nhưng hài cốt bị thất lạc.
Wast, giờ đây 67 tuổi và hiện đang sống tại Toledo, bang Ohio, đã không trở lại Việt Nam để trả lại chiếc mũ cối cho gia đình liệt sĩ Hung. Nhưng trong một bức thư được đọc tại buổi lễ, Wast nói ông Hung đã chiến đấu bằng "khả năng và sự dũng cảm".
"Giờ là lúc tôi trả lại chiếc mũ cho những người biết và lo lắng cho Bui Duc Hung", ông Wast viết. "Tôi làm việc này với mong muốn rằng hòa bình và tình yêu sẽ đến với mọi người".
Theo AP-An Bình

Hành trình ly kỳ của cựu binh Mỹ từng giữ Nhật ký Đặng Thùy Trâm hơn 20 năm


Sau 45 năm “im lặng”, Carl W. Greifzu vừa trở lại Việt Nam với tư cách là cựu binh Mỹ và cũng là con rể của Bắc Ninh. Đến Hà Nội, ông tới thăm gia đình thân nhân và đến viếng mộ Anh hùng Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Thêm nữa, ông còn rước di ảnh vợ mình về thăm miền quê Quan họ.
Ông là Carl W. Greifzu, một người Mỹ gốc Đức, một cựu binh trong chiến tranh Việt Nam, là người có công giữ cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” hơn 20 năm. Hơn thế, ông còn phối hợp với người vợ mình là bà Trần Thị Kim Dung dịch cuốn sổ tay đó ra tiếng Anh từ gần 40 năm trước. Nhờ vậy mà các cựu binh Mỹ hiểu được giá trị, ý nghĩa của cuốn sổ tay nhật ký. Họ đã tìm mọi cách chuyển nó về Việt Nam…
Vào tháng 6/1970, khi Fredric Whitehurst, một lính Mỹ, tại chiến trường Đức Phổ (Quảng Ngãi) tính châm lửa đốt quyển sổ tay được bọc bằng vải, thu được sau một trận càn quét, người thông dịch của ông đã cản: "Đừng đốt. Bản thân nó đã có lửa rồi!". Nghe lời khuyên, người lính Mỹ ấy đã không đốt quyển sổ tay. Và “Ngọn lửa” ấy còn dẫn Fredric và người anh trai là Robert Whitehurst (cũng là một cựu binh Mỹ trong chiến tranh VN) làm một cuộc hành trình vượt đại dương, tình nguyện đưa nhật ký của Đặng Thùy Trâm về với gia đình chị…
Photo: Cựu binh Mỹ Carl W. Greifzu đến ôm hôn mẹ AHLS Đặng Thùy Trâm, nghẹn ngào không nói lên lời.
Cách đây 11 năm, cuốn nhật ký của bác sĩ, liệt sĩ Đặng Thùy Trâm qua hơn 30 năm lưu lạc trên đất Mỹ, sau khi trở về VN đã in với số lượng hàng trăm ngàn bản. Cùng với nhật ký “Mãi mãi tuổi 20” của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc, 2 cuốn sách đã tạo nên một hiện tượng xuất bản, gây chấn động xã hội, trở thành một sự kiện nổi bật được dư luận trong và ngoài nước biết đến.
Nhưng còn rất ít người biết chi tiết này: Năm 1970, Sau khi Fredric Whitehurst nhặt được cuốn sổ tay của Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm, ông đã trao nó cho Carl W. Greifzu, một lính Mỹ gốc Đức, có vợ là người Việt giữ hộ. Sau hơn 20 năm, nhờ đọc bản dịch tiếng Anh tóm tắt nội dung cuốn nhật ký của vợ mình, tham gia hiệu đích bản dịch ấy và nhận ra giá trị của di vật đặc biệt đó, năm 1996 Carl W. Greifzu đã quyết định trao lại nó cho Fredric Whitehurst, để chuyển về Việt Nam…
Hơn 10 năm qua, có rất nhiều cựu binh Mỹ đã tới VN thăm lại chiến trường xưa và đến Hà Nội thăm gia đình Anh hùng liệt sĩ Đặng Thùy Trâm. Nhưng Carl W. Greifzu – người đã giữ cuốn sổ tay nhật ký của chị Trâm hơn 20 năm, vẫn chưa có dịp trở lại VN, kể từ sau năm 1975.
Đúng như kế hoạch đã thông báo được gửi qua email cho tôi, sáng ngày 22/3/2016, cựu binh Carl W. Greifzu, người giữ cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” hơn 20 năm - đã đáp chuyến bay tới Hà Nội. Đó là một người Mỹ có mái tóc đã bạc và khá cao (tôi cao trên 1m70, nhưng chỉ đứng đến tai ông). Tuy nhiên, là một Luật sư có tiếng ở Mỹ, trông Carl W. Greifzu rất hiền và lịch lãm.
Photo: Nhà văn Đặng Vương Hưng tặng hoa ông Carl W. Greifzu (bên phải) và hai người thân mật trò chuyện
Khoảng 10 giờ sáng, chúng tôi cùng có mặt trên sân thượng của quán Coffee Club ngay cạnh hồ Hoàn Kiếm để trò chuyện. Với tư cách là một nhà văn, cựu chiến binh, tôi mua sẵn một bó hoa mang đến tặng Carl W. Greifzu.
- Chào mừng ông đã đến Hà Nội an toàn! Tôi đã nghe người ta nói rất nhiều về ông. Rất hân hạnh được làm quen!
Tôi tặng cho Carl bó hoa tươi, rồi nói vài câu tiếng Anh theo phép lịch sự. Nhưng thật bất ngờ khi nghe người cựu binh Mỹ trả lời bằng tiếng Việt với giọng lơ lớ, thật dễ thương:
- Cảm ơn! Anh khoẻ không? Anh ăn cơm chưa? Anh đã có bạn gái chưa?
À, tôi quên ông ấy còn là con rể của Việt Nam. Chắc hẳn bà vợ người Việt từng dạy tiếng Việt cho ông ít nhiều. Tôi nói vui:
- Cái tên của ông phiên âm tiếng Việt đọc khó lắm. Cho phép tôi gọi thân mật ông là “Khôn” (khôn ngoan), hoặc “Kho” (nhà kho) nhé. Ở Bắc Ninh, quê vợ ông có Đền Bà Chúa Kho nổi tiếng lắm đó. Người ta đồn rằng, nhiều người nhờ tới đó đi lễ mà trở nên giàu có…
Cô phiên dịch giải thích xong, Carl W. Greifzu bật cười vui vẻ. Chúng tôi đã “làm thân” với nhau rất nhanh như thế.
Ông “Kho” có mang theo hàng trăm bức ảnh đen trắng kỷ niệm về chiến trường Quảng Ngãi những năm 1970 – 1971, trong đó có cả ảnh của Fredric Whitehurst và người phiên dịch thời đó. Rất nhiều tư liệu và ảnh về bà Trần Thị Kim Dung – người vợ Việt Nam quê Bắc Ninh. Đặc biệt, ông còn mang theo cả tập bản thảo hơn trăm trang viết tay và đánh máy bản dịch đầu tiên của "Nhật ký Đặng Thùy Trâm" ra tiếng Anh, do ông bà phối hợp thực hiện từ thập niên 80.
Trang đầu bản viết tay và đánh máy dịch tiếng Anh của cuốn bản thảo Nhật ký Đặng Thùy Trâm


Carl W. Greifzu nhớ lại, khoảng tháng 9 năm 1971, khi cấp trên cho phép ông từ chiến trường Việt Nam trở về Mỹ, Fredric Whitehurst đã gửi ông cuốn sổ tay nhật ký Đặng Thùy Trâm nhờ ông giữ hộ. Năm 1975, khi chiến tranh Việt Nam đã kết thúc, những người lính Mỹ trở về nước, ai cũng bận rộn với công việc mới, lo chuyện mưu sinh, nên Carl và Fredric đã không có điều kiện gặp lại, vì họ sống ở hai bang cách xa nhau cả ngàn cây số.
Dù chỉ ở Việt Nam trong 2 năm, nhưng ký ức về cuộc chiến vẫn luôn ám ảnh, làm Carl W. Greifzu day dứt không nguôi. Những lúc rảnh, bà Trần Thị Kim Dung thường dịch nghĩa những trang nhật ký của người “Nữ bác sĩ Việt Cộng”, đọc cho chồng nghe từng đoạn. Càng ngày, những trang viết máu lửa chiến trường ấy càng cuốn hút ông. Đến một hôm, Greifzu đã chính thức đề nghị vợ giúp ông dịch toàn bộ cuốn nhật ký của “Nữ bác sĩ Việt cộng” ra giấy, để nhiều người, đặc biệt là các cựu chiến binh Mỹ cùng được đọc.
Bà Dung đồng ý và hưởng ứng ngay. Tuy nhiên, công việc dịch nghĩa diễn đạt lại theo lời nói và dịch viết ra bản thảo rất khác nhau. Bà Dung đã “đánh vật” với từng trang viết và vất vả nhiều tháng trời. Ông Greifzu đã trợ giúp vợ bằng cách tự đánh máy chữ và hiệu đính bản thảo vì thời đó, nhiều người Mỹ vẫn còn dùng máy chữ, chưa có sẵn máy vi tính như bây giờ. Rồi cuối cùng bản thảo dịch cũng hoàn thành.
Photo: Ông Carl W. Greifzu trao tặng Nhà văn Đặng Vương Hưng bản dịch tiếng Anh đầu tiên của
Bản thảo bà Dung viết tay được sử dụng bằng loại giấy có dòng kẻ khổ lớn, đục lỗ một bên lề, đóng kẹp như tài liệu lưu trữ trong hồ sơ, để sửa chữa và lưu giữ cho dễ dàng. Phần bản thảo viết tay gồm 102 tờ giấy, được viết trên cả 2 mặt trước và sau. Phần bản thảo do ông Greifzu đánh máy dày 121 trang, loại chữ nhỏ, trên một mặt giấy. Hầu như trang nào cũng được thêm bớt và sửa chữa nhiều lần bằng chữ viết tay.
Carl W. Greifzu cho biết, ông và bà Dung đã thuộc lòng nhiều trang nhật ký của người “Nữ bác sĩ Việt Cộng” anh hùng ấy. Bởi đó là một phần cuộc đời của vợ chồng ông. Những năm sau đó, bà Dung đã photo thêm nhiều bản dịch đã được văn bản hóa nêu trên, để chồng mình gửi tặng cho những người bạn cựu binh Mỹ cùng đọc nó, giúp họ hiểu thêm về cuộc chiến tranh Việt Nam…
Khoảng năm 1996, Fredric Whitehurs tìm đến thành phố nơi vợ chồng Carl W. Greifzu đang sống. Họ vừa ăn trưa cùng nhau, vừa ôn lại những kỷ niệm tại chiến trường Việt Nam. Carl đã quyết định trao lại cuốn sổ tay "Nhật ký Đặng Thùy Trâm" cho Fredric. Và đoạn kết có hậu ở Việt Nam thì chúng ta đã biết...
Vốn tính khiêm nhường, Carl W. Greifzu rất ít nói về bản thân. Ông tự nhận là mình chỉ góp một phần nhỏ vào việc cùng các cựu binh Mỹ giữ gìn và trao lại cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” cho Việt Nam.
Carl W. Greifzu, người giữ cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” hơn 20 năm đã trực tiếp trao tặng tôi tài liệu rất quý: Bản dịch tiếng Anh đầu tiên của “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”!
Trước khi tiếp nhận 2 tập bản thảo gốc, tôi đề nghị Carl W. Greifzu viết mấy chữ đề tặng vào phong bì tài liệu. Là một luật sư, ông cẩn trọng hỏi lại: “Nên ghi như thế nào nhỉ”? Ở Việt Nam ghi ngày và tháng trước, hay là năm trước? Rồi ông lấy mấy tờ khăn giấy có sẵn trên bàn café, thử nháp trước tới 2 lần… Cuối cùng, Carl W. Greifzu đã chính thức viết, tạm dịch như sau: “Thay mặt Trần Thị Kim Dung, tôi vui mừng trao cho Đặng Vương Hưng vì lợi ích của nhân dân Việt Nam, bản dịch gốc ra tiếng Anh Nhật ký của Bác sĩ Đặng Thùy Trâm. Hà Nội, tháng 3, ngày 23 năm 2016. Carl W. Greifzu"
Với sự cộng tác, trợ giúp của chồng mình, bà Dung là người đầu tiên dịch “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” ra tiếng Anh. Nhờ bản dịch này mà các cựu binh Mỹ hiểu được giá trị cuốn sổ tay ấy và họ đã quyết định tìm mọi cách trao trả cho gia đình Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm…
Tên đầy đủ của bà là Trần Thị Kim Dung. Theo một tài liệu, do Carl W. Greifzu cung cấp cho biết: Bà Dung sinh năm 1931, quê tại Yên Lãng - Phúc Yên. Nhưng lớn lên và gắn bó tại Niềm Xá – Bắc Ninh. Cha là Trần Văn Trùng và mẹ là Nguyễn Thị Dĩnh (*). Gia đình bà Dung từ Bắc di cư vào Nam từ rất sớm. Khoảng năm 1948, khi mới 17 tuổi, bà đã sang Đài Loan, rồi sang Mỹ học tập…
Bà Trần Thị Kim Dung từng làm nhân viên phiên dịch cho Tòa đại sứ của chính quyền Sài Gòn cũ tại Đài Loan. Tại đây, bà đã nhiều lần gặp ông Ngô Đình Diệm, từ khi ông này còn chưa làm Tổng thống chế độ Sài Gòn, rồi bị sát hại trong một cuộc đảo chính. Cuối thập niên 60 của thế kỷ trước, bà Dung chuyển sang Mỹ, làm nhiệm vụ dạy tiếng Việt cho một số lính Mỹ trước khi họ sang chiến trường Việt Nam.
Carl W. Greifzu nhớ lại: Ông gặp bà Trần Thị Kim Dung năm 1969 trong một lớp học tiếng Việt cho lính Mỹ. Năm đó, Greifzu mới 26 tuổi, kém bà Dung tới 12 tuổi. Nhưng ông đã bị cô giáo làm cho “say nắng” ngay từ cái nhìn đầu tiên. “Thời đó, bà ấy là một phụ nữ đẹp lắm. Cả lớp chúng tôi đều mê cô giáo gốc Việt ấy - Greifzu thú nhận - Giờ nghỉ, tôi đánh bạo hỏi: Thưa, cô đã có bạn trai chưa? Bà ấy hóm hỉnh trả lời: “Có rồi. Tất cả các anh đây tôi đều coi là bạn”. Tôi chẳng chịu, bảo: “Không, ý tôi là chỉ một người duy nhất. Có thể kết hôn ấy!”.
“Chúng tôi yêu nhau từ đó - gương mặt Greifzu ánh lên niềm hạnh phúc khi kể lại chi tiết này - Trước khi sang tham chiến tại Việt Nam, tôi xin đính hôn với bà Dung, nhưng chưa làm lễ cưới, vì sợ làm lỡ dở cuộc đời bà. Những ngày ở Việt Nam, chúng tôi vẫn đều đặn viết thư cho nhau… Sau khi từ Việt Nam trở về Mỹ năm 1971, chúng tôi đã làm lễ cưới…”.
Dù hai người không có con, nhưng Trần Thị Kim Dung và Carl W. Greifzu đã sống hạnh phúc bên nhau 45 năm. “Lá rụng về cội”, những năm cuối đời, bà Dung luôn có một khát khao cháy bỏng là được một lần được về Việt Nam để thăm lại miền quê Quan họ Bắc Ninh, nơi bà đã sinh ra và lớn lên. Những đáng tiếc là ước nguyện cuối đời ấy bà đã không thực hiện được. Bà Dung đã mất tại Mỹ năm 2015, hưởng thọ 85 tuổi!
Tới thăm Việt Nam lần này, Greifzu mang theo một sứ mệnh thiêng liêng là thực hiện di nguyện của bà Dung về thăm quê hương, với tư cách là con rể của Bắc Ninh! Theo gợi ý của tôi, Greifzu đã nhờ người phóng to một bức chân dung đẹp nhất của vợ mình khi còn sống để cựu binh Mỹ Carl W. Greifzu sẽ mang theo di ảnh chân dung của bà Trần Thị Kim Dung cùng về Bắc Ninh. Ông tin rằng linh hồn vợ mình sẽ cùng về thăm quê với ông. Mỗi bước đi của ông tại Bắc Ninh, đều như có bà vợ đã chung sống hạnh phúc với ông gần nửa thế kỷ đi cùng.
Và sáng thứ Bảy, 26/3, người đàn ông Mỹ cao lớn, tóc bạc trắng ấy, đã thực hiện chuyến rước di ảnh của vợ về thăm quê với tâm trạng xúc động rất khó diễn tả thành lời…
Bắc Ninh trong tâm tưởng của Greifzu là vùng đất cổ, cũ kỹ, nghèo khó và dân cư thưa thớt của những năm 30 – 40 của thế kỷ trước, trong lời kể của bà Kim Dung…
Bởi thế, khi xe đưa ông đến thành phố của những điệu dân ca Quan họ nổi tiếng đã được UNESCO vinh danh là di sản phi vật thể, ông thốt lên: Sao nhiều nhà cao tầng đẹp thế! Nhiều con gái xinh thế! Mà người và xe cũng thoáng hơn Hà Nội rất nhiều!
Bắc Ninh, quê bà Trần Thị Kim Dung người vợ yêu thương của Carl W. Greifzu là vậy! Dù chuyện đi chỉ ngắn ngủi chỉ trong một ngày, nhưng cựu binh Mỹ đã luôn mang theo những tấm chân dung của người vợ mới qua đời cách đây 4 tháng. Khi nghe những Liền chị hát mấy làn điệu Quan họ, dù không hiểu nghĩa, nhưng ông vẫn cảm nhận được và nghẹn ngào, rưng rưng…
Có lẽ Chủ Nhật (27/3/16) là một trong những ngày đáng nhớ nhất trong cuộc đời cựu binh Carl W. Greifzu – Người giữ cuốn “Nhật ký Đặng Thùy Trâm” hơn 20 năm và cùng vợ ông dịch nó ra tiếng Anh từ gần 40 năm trước.
Carl W. Greifzu dậy từ rất sớm, nhờ cô phiên dịch đưa ra Nhà thờ Lớn Hà Nội, nhân ngày Lễ Phục sinh. Ông ngạc nhiên khi ở Việt Nam cũng có những nhà thờ đã hàng trăm năm tuổi như thế.
Đúng 9 giờ 30 sáng, chúng tôi đón ông cùng lên taxi đến đến nhà bà Doãn Ngọc Trâm (thân mẫu của Anh hùng Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm) tại ngõ 135 phố Đội Cấn. Đã từ lâu, gia đình bà coi tôi như con cháu trong nhà. Vì đã hẹn trước, nên các chị Đặng Hiền Trâm, Đặng Phương Trâm và Đặng Kim Trâm đều đang đợi sẵn và ra tận cửa để đón Carl W. Greifzu.
Năm nay đã 92 tuổi, lại bị chứng bệnh đau chân, nên người mẹ của người nữ Anh hùng liệt sĩ phải ngồi đợi trên lầu. Khi người cựu binh Mỹ vừa bước lên, bà cụ đứng dậy nói những câu chào hỏi bằng tiếng Pháp:
- Cảm ơn ông đã đến. Cảm ơn anh đã giữ gìn cuốn sổ tay nhật ký của con gái tôi và dịch nó ra tiếng Anh. Chúng tôi đợi anh đã lâu lắm rồi! Mấy lần trước, khi Fredric Whitehurst sang thăm Việt Nam, mỗi lần đến nhà tôi chơi, đều có nhắc đến anh…
Carl W. Greifzu lúng túng cảm động chào lại, rồi hai người ôm nhau nghẹn ngào không nói nên lời.
Người cựu binh Mỹ xin phép thắp hương trên bàn thờ Anh hùng liệt sĩ Đặng Thùy Trâm và vái lạy như phong tục Việt Nam. Ông quan sát căn phòng nhỏ và chợt như reo lên, vì phát hiện ra tấm ảnh quen thuộc có trong cuốn số tay nhật ký đang treo trên tường nhà…
Chị Kim Trâm đưa ra bản photo cuốn số tay nhật ký được đóng bìa cứng cho Carl W. Greifzu và hỏi:
- Anh có nhận ra những dòng chữ viết này không? Bút tích của chị Thùy Trâm tôi viết đó!
Người cựu binh Mỹ gật đầu và xúc động:
- Nhận ra chứ. Nhờ bản dịch của Kim Dung mà tôi đã hiểu đến thuộc lòng nội dung nhiều trang. Nhưng tôi nhớ cuốn sổ gốc kia cỡ chữ nhỏ hơn nhiều...
- Vâng, bản chính cuốn của cuốn sổ tay nhật ký gia đình đang nhờ lưu giữ bên Mỹ. Đây là bản sao, chúng tôi đã phóng to cỡ chữ lên cho dễ đọc.
Chờ cho nhóm phóng viên Truyền hình kỹ thuật số ghi hình mẹ Doãn Ngọc Trâm trò chuyện với Carl W. Greifzu xong, chúng tôi hối thúc ông lên đường ra nghĩa trang cho kịp trước 12 giờ trưa.
Ngày Chủ nhật, Nghĩa trang Liệt sĩ Từ Liêm không đông lắm. Tôi thấy Carl W. Greifzu bước xuống xe với tâm trạng rất lạ.
Sau khi thành kính thắp hương vái lạy trước mộ người Anh hùng Liệt sĩ đúng hướng dẫn của cô phiên dịch, ông bỗng quỳ xuống bên cạnh mộ thầm thì điều gì đó bằng tiếng Anh. Tôi đã kịp ghi lại giây phút hiếm hoi ấy: Người cựu binh Mỹ với mái tóc đã bạc ngồi lặng lẽ suy tư giữa nghĩa trang, xung quanh là các ngôi mộ của các Liệt sĩ Việt Nam với rất nhiều hoa và hương khói. Carl W. Greifzu dùng điện thoại ghi lại từng chi tiết nhỏ những hình ảnh và dòng chữ có trên bia mộ của Anh hùng Liệt sĩ Đặng Thùy Trâm…
Một cơn gió nổi lên, thổi nắm hương cháy bùng thành ngọn lửa. Người phiên dịch kéo ông đứng lên: “Chúng ta về thôi. Còn rất nhiều việc đang chờ và chương trình chiều nay nữa”. Carl W. Greifzu như bừng tỉnh. Ông dụi mắt đứng dậy, thành kính cúi người chào vĩnh biệt người nữ Anh hùng đã mang ấn tượng sâu đậm không bao giờ phai mờ trong cuộc đời mình. Người nữ chiến sĩ của đối phương một thời, vừa xa xôi lại vừa thật gần gũi với ông. Dường như có ai đó đã thì thầm với Carl W. Greifzu rằng: Sự trở về và sức lan tỏa của cuốn nhật ký cho thấy, nó như một nhịp cầu gắn kết những con người vốn ở 2 chiến tuyến gần nhau hơn, xóa nhòa khoảng cách hận thù trong quá khứ. Có lẽ, đó là điều lớn hơn cả mà người Anh hùng Đặng Thùy Trâm đã để lại cho thế giới này.
Ra khỏi Nghĩa trang Liệt sĩ Từ Liêm, Carl W. Greifzu cứ nhắc mãi câu nói nổi tiếng có trong “Nhật ký Đặng Thùy Trâm”, nay đã được khắc nổi trên mộ của chị: “Hãy yêu thương nhau khi còn sống”!

Ngày hôm nay, 29/3/2016, cựu binh Mỹ Carl W. Greifzu sẽ bay vào Thành phố Hồ Chí Minh, dừng lại đôi ngày trước khi về Mỹ. Đã ngoài 70 tuổi, không biết ông còn có điều kiện trở lại VN - Vùng đất “máu lửa một thời” đã gắn bó cuộc đời ông với bao kỷ niệm vui buồn một lần nữa không?
TỔNG HỢP NHIỀU NGUỒN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét