ĐỪNG QUÊN QUỐC HỘI DÂN CHỦ THỔ TẢ
ĐÃ TỪNG BỨC TỬ VNCH
Sức chiến đấu của Quân Lực VNCH trong những ngày sau hiệp định Paris 1973 ngày càng bi đát hơn. Nguyên nhân chính là sự cắt giảm quân viện cho miền nam của đám dân chủ thổ tả trong Quốc Hội Mỹ vào năm 1975, từ sự cắt giảm đó, QL.VNCH đã lâm vào tình trạng hết sức thiếu thốn về vũ khí đạn dược một cách trầm trọng. Áp lực quân sự của csBV đã đè nặng lên khắp 4 vùng chiến thuật. Theo lời cụ Bùi Diễm, cựu đại sứ VNCH tại Hoa Kỳ trong nhiệm kỳ của TT Thiệu, đảng viên đảng Đại Việt, chủ bút của tờ Saigon Post, một nhân vật lịch sử nói về cái chết của miền nam: "VNCH trong cái thế xiết chặt của lịch sử thì một cá nhân dẫu có vùng vẫy cách nào cũng không thể thoát ra khỏi bước kềm tỏa. Một cá nhân dầu ở cương vị nào, dẫu phấn đấu thế nào cũng không thể chuyển lay cả toàn cục diện. Những cái buông, bắt ở một tư thế nào đó không còn thuộc phạm trù của tầm với đã biến con người thành một con ốc trong bộ máy to lớn của lịch sử. Có những lúc lịch sử đã thoát thai, thành một quái vật khổng lồ đuổi bắt những người trong cuộc một cách nghiệt ngã. Lịch sử đã không cho phép những người trong cuộc giữ phần lèo lái. Khi bánh xe lịch sử chuyển hướng những người trong cuộc thường phải sững sờ vì lịch sử không còn đứng về phía họ". Đó cũng chính là số phận của VNCH, trước sự lôi cuốn của lịch sử.
BỐI CẢNH TRƯỚC KHI KÝ HIỆP ĐỊNH PARIS 1973
Tháng 3-1968 CS Hà Nội sau khi thất bại trong trận tổng tấn công Mậu Thân 1968 nên đã chịu ngồi vào bàn thương thuyết tại Paris. Tổng thống Mỹ Johnson (đảng Dân Chủ) đương nhiệm, tuyên bố không ra tranh cử nhiệm kỳ hai (tháng 11-1968) vì biết trước cử tri sẽ không bầu cho ông.
Trước ngày bầu cử thì Hòa đàm Paris đã khai mạc vào tháng 5-1968 giữa Mỹ và CSBV. Hai bên Mỹ-Hà Nội đang bàn thảo về thành phần Hội nghị, dự trù chính thức khai mạc đầu tháng 11-1968 với bốn bên: Mỹ, VNCH, CSBV và Mặt trận giải phóng (MTGP). Cùng lúc ấy cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ đang diễn ra sôi nổi, phó TT Humphrey đại diện đảng Dân chủ, Nixon đại diện Cộng hòa.
Vì sự có mặt của phái đoàn MTGP nên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã kịch liệt phản đối, không tham dự Hòa đàm. Nixon lúc đó thừa cơ hội cử sứ giả (bà Anna Chennault, người gốc Hoa) sang Sài Gòn khuyến khích ông Thiệu đừng tham gia Hội nghị, chờ Nixon (Cộng Hoà) khi thắng cử (vào đầu tháng 11-1968) ông sẽ ũng hộ và
giúp VNCH nhiều hơn là Dân Chủ.
TT Johnson (DC) kết án ông Thiệu vì không tham dự hòa đàm nên Humphrey (Dân chủ) thất cử, ông đã cho nghe lén và biết là ứng cử viên Nixon đã âm mưu cử sứ giả sang Sài Gòn thuyết phục ông Thiệu không tham dự Hòa đàm Ba Lê. GS Nguyễn Tiến Hưng cho biết năm 1985 tại Luân Đôn ông Thiệu kể lại rằng hồi ấy (1968) nếu Humphrey (DC) đắc cử thì nửa năm sau sẽ ép miền nam VN liên hiệp với CSBV để Mỹ rút quân, ông Thiệu chọn thà đi với Nixon (CH) còn nhiều hy vọng tồn tại hơn khi Humphrey (DC) thắng cử. Quyết định đó của TT NGuyễn Văn Thiệu lúc đó hết sức sáng suốt và đứng đắn.
Tuy nhiên các lời hứa của Nixon với ông Thiệu trước khi đắc cử tổng thống, đều không thể thực hiện được vì vụ Watergate tháng 8-1974, đưa đến việc Nixon phải từ chức. Từ đó VNCH đã bị áp lực của QH do đám DC thổ tả áp đảo đã dồn VNCH vào chân tường để rồi kết thúc vào ngày 30.4.1975.
Tháng 3-1968 CS Hà Nội sau khi thất bại trong trận tổng tấn công Mậu Thân 1968 nên đã chịu ngồi vào bàn thương thuyết tại Paris. Tổng thống Mỹ Johnson (đảng Dân Chủ) đương nhiệm, tuyên bố không ra tranh cử nhiệm kỳ hai (tháng 11-1968) vì biết trước cử tri sẽ không bầu cho ông.
Trước ngày bầu cử thì Hòa đàm Paris đã khai mạc vào tháng 5-1968 giữa Mỹ và CSBV. Hai bên Mỹ-Hà Nội đang bàn thảo về thành phần Hội nghị, dự trù chính thức khai mạc đầu tháng 11-1968 với bốn bên: Mỹ, VNCH, CSBV và Mặt trận giải phóng (MTGP). Cùng lúc ấy cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ đang diễn ra sôi nổi, phó TT Humphrey đại diện đảng Dân chủ, Nixon đại diện Cộng hòa.
Vì sự có mặt của phái đoàn MTGP nên Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã kịch liệt phản đối, không tham dự Hòa đàm. Nixon lúc đó thừa cơ hội cử sứ giả (bà Anna Chennault, người gốc Hoa) sang Sài Gòn khuyến khích ông Thiệu đừng tham gia Hội nghị, chờ Nixon (Cộng Hoà) khi thắng cử (vào đầu tháng 11-1968) ông sẽ ũng hộ và
giúp VNCH nhiều hơn là Dân Chủ.
Kết quả bầu cử ngày 5-11 Nixon (Cộng hòa) thắng cử với 301 phiếu cử tri đoàn trên 32 tiểu bang, Humphrey được 191 phiếu trên 13 tiểu bang và DC, với tỷ lệ 56%.
Tuy nhiên các lời hứa của Nixon với ông Thiệu trước khi đắc cử tổng thống, đều không thể thực hiện được vì vụ Watergate tháng 8-1974, đưa đến việc Nixon phải từ chức. Từ đó VNCH đã bị áp lực của QH do đám DC thổ tả áp đảo đã dồn VNCH vào chân tường để rồi kết thúc vào ngày 30.4.1975.
Đảng Dân chủ vì thù ghét VNCH, cho rằng vì ông Thiệu mà họ thất bại trong việc tranh cử với Nixon. Tác giả Trần Đông Phong, là Giảng Viên tại Trường Sinh Ngữ Quân Đội, là Chủ bút Nguyệt San Anh Ngữ “Free Front”, ông là chuyên viên về Liên Lạc Quốc Tế của Liên Hiệp Nghị Sĩ Á Châu (Asian Parliamentarian's Union) từ năm 1971, ông cho biết tháng 4 năm 1975 - Quốc hội Mỹ do Dân chủ kiểm soát đã cắt bỏ hoàn toàn quân viện miền nam VN để trả thù việc ông Thiệu 7 năm trước (1968) đã ủng hộ Cộng hòa và giúp Nixon thắng cử. Ông Phong nói, một số dư luận có tầm ảnh hưởng chính trị tại Washington hồi đó cũng có cùng nhận định như thế, ông trích dịch cuốn A Better War của Lewis Sorley trang 366: “….Quốc hội Mỹ đã sắp xếp chuyện đó với một sự trả thù”.
Giữa tháng 4-1975 miền nam Việt Nam các phương tiện về quân sự cần thiết cho chiến trường hoàn toàn bị kiệt quệ về tiếp liệu đạn dược. Một gói việt trợ cho VNCH đã bị Quốc hội Dân chủ Mỹ bác bỏ, đó là khoản viện trợ khẩn cấp 722 triệu do TT Ford đưa ra để giúp Việt Nam Cộng Hòa, quyết định cắt giảm này đã làm cho cs Bắc Việt tăng cường áp lực quân sự, và tiến vào Sài gòn y như vào chỗ không người.
Khi Hiệp Định Paris được ký kết, ngày 29/3/73, tại Bộ Tư Lệnh MAC-V trong phi trường Tân Sơn Nhứt, 42 quân nhân Mỹ đại diện cho các quân binh chủng từng tham chiến tại VN làm lễ cuốn cờ dưới sự có mặt của Đại sứ Bunker và tướng Weyand, Tự Lệnh Quân Lực Mỹ tại VN. Và trong buổi chiều cùng ngày người quân nhân cuối cùng của quân đội Mỹ đã rời Việt Nam dưới sự chứng kiến của Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến. Thế là vài trò quân sự của Mỹ tại VN đã chấm dứt.
Tiếp theo sau đó hơn nửa triệu quân Ðồng Minh đã rút đi, Quân đội VNCH một mình phải gánh vác toàn bộ chiến trường với nhiều khó khăn thiếu thốn. Tháng 6-1973 Quốc Hội Mỹ biểu quyết cắt ngân khoản cho tất cả các hoạt động quân sự Mỹ tại Ðông Dương Việt Mên Lào, được áp dụng từ giữa tháng 8-1973 cấm hoạt động quân sự trên toàn cõi Ðông Dương.
Tháng 10-1973 Quốc Hội Mỹ ra Ðạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh (Wars Powers Act), đòi hỏi Tổng thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến. Quân phí của Hoa kỳ trong chiến tranh Ðông Dương tăng dần từ 1967 là 20 tỷ, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên tới đỉnh cao là 29 tỷ, nhưng năm 1970, 1971 tụt xuống còn 12 tỷ mỗi năm. Cuối 1972 Hoa Kỳ rút hết quân sau Hiệp định Ba Lê, năm 1973 viện trợ quân sự cho VNCH xuống còn 2 tỷ 1, năm 1974 chỉ còn 1 tỷ 4, năm 1975 tụt xuống còn 700 triệu trong đó kể cả ngân khoản để trả lương cho nhân viên DAO Hoa Kỳ.
Tháng 10-1973 Quốc Hội Mỹ ra Ðạo luật hạn chế quyền Tổng Thống về chiến tranh (Wars Powers Act), đòi hỏi Tổng thống phải tham khảo ý kiến Quốc Hội trước khi gửi quân đi tham chiến. Quân phí của Hoa kỳ trong chiến tranh Ðông Dương tăng dần từ 1967 là 20 tỷ, năm 1968 lên 26 tỷ, năm 1969 lên tới đỉnh cao là 29 tỷ, nhưng năm 1970, 1971 tụt xuống còn 12 tỷ mỗi năm. Cuối 1972 Hoa Kỳ rút hết quân sau Hiệp định Ba Lê, năm 1973 viện trợ quân sự cho VNCH xuống còn 2 tỷ 1, năm 1974 chỉ còn 1 tỷ 4, năm 1975 tụt xuống còn 700 triệu trong đó kể cả ngân khoản để trả lương cho nhân viên DAO Hoa Kỳ.
Cái gọi là "Đại Thắng Mùa Xuân" mà cs Bắc Việt luôn khoe khoang, thực ra chỉ là một sự bố thí của Hoa Kỳ sau khi có được những thỏa thuận chính trị và kinh tế to lớn hơn với Trung Cộng .
Theo Đại tướng Cao Văn Viên (Những Ngày Cuối Của VNCH trang 86, 87, 92) Hậu quả của cắt giảm quân viện khiến cho Không quân VNCH phải giải tán hơn 200 phi cơ chiến đấu, oanh tạc, vận tải thám thính, giảm giờ bay thực tập và yểm trợ , yểm trợ giảm 50%, vận chuyễn trực thăng giảm 70%, không vận bằng vận tải cơ bị cắt giảm 50%. Hoạt động Hải quân bị cắt giảm 50%, hoạt động từ tháng 7-1974 ở sông ngòi giảm 70%, giải tán 600 giang thuyền. Từ tháng 7-1974 quân đội chỉ xử dụng khoảng 19 ngàn tấn đạn một tháng so với 73 ngàn tấn một tháng thời gian trước đó, hoả lực giảm 60%. Vào tháng 2-1975, số lượng đạn tồn kho của tất cả các loại súng trường, phóng lựu, súng cối, đại bác, lựu đạn… tuột xuống con số nguy hiểm, chỉ còn đủ xử dụng từ 25 đến 31 ngày…Tháng 4-1975 , đạn tồn kho ở bốn kho dự trữ tuột dốc xuống mức thấp nhất chỉ đủ xài từ 14 đến 20 ngày…Kể từ sau Hiệp định Paris VNCH không còn trông cậy vào yểm trợ của B-52 nữa.
“Quân nhân VNCH bị bắt buộc phải chiến đấu trong một nhu cầu dưới mức bình thường khiến khả năng cũng như sự chu toàn nhiệm vụ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Phải vật lộn với cuộc sống hàng ngày đã làm sút giảm khả năng của họ. Tình trạng này không cho phép kéo dài nếu muốn duy trì một lực lượng quân sự có khả năng”. Người Mỹ ký hiệp định Paris với mục đích rút ra khỏi vũng lầy VN đồng thời trao đổi tù binh Mỹ. Quyền lợi chính của miền Nam VN không được chú trọng đến.
Việc cắt giảm viện trợ của Hoa Kỳ cho VNCH đã được ghi lại rất rõ ràng với nhiều chi tiết trong các tài liệu Việt-Mỹ:
*Những ngày cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa (Cao văn Viên)
*Khi Đổng Minh tháo chạy (Nguyễn Tiến Hưng)
*The Fall of South Vietnam : Statements by Vietnamse Military and Civilian Leaders (Stephen Hosmer & Konrad Kellen & Brian Jenkins [RAND Corporation]
*Vietnam from Cease-Fire to Capitulation (William Le Gro)
Tình trạng quân cụ của VNCH ( phần Lục quân )
Đại Tuớng Cao văn Viên, Tổng Tham mưu truởng của QLVH đã ghi trong tập sách của Ông (trang 86-94) khá nhiều chi tiết về tình trạng khó khăn về tiếp liệu của QL VNCH:
"Vào cuối năm 1974, tổng số nhu cầu cần được thay thế lên đến 400 triệu mỹ kim. Những quân dụng cần thiết nhất như là vũ khí và đạn thì cần được thay thế khoảng 70 %. Một vài chương trình khác thay đổi quân dụng bị đình chỉ vì thiếu ngân quỹ.."
Chỉ có 33 % (tương đương 24 triệu mỹ kim ) tổng số quân cụ/vũ khí cần thiết được thay thế. Thiếu phụ tùng thay thế càng tạo thêm trở ngại cho vấn đề bảo trì. Nhiều quân cụ/vũ khí tại các đơn vị tác chiến phải chờ từ 30 đến 45 ngày để được thay thế, sửa chữa.
Quan trọng nhất là số lượng đạn tồn kho (tháng 2 năm 1975), giảm đến mức nguy hiểm: so với mức dự trữ căn bản là 60 ngày chỉ còn cung ứng được hơn 30 ngày!
Đạn Số ngày tồn kho
Đạn M-16 (31 ngày)
Phóng lựu 40 ly (29)
Súng cối 60 (27)
Súng cối 81 (30)
Đại bac 105 (34)
Đại bac 155 (31)
Lựu đạn (25)
Với thời gian là 45 ngày từ lúc đặt hàng và chuyên chở tới VN bằng tàu, thì thờì gian..quá lâu cho trường hợp khẩn cấp.. Sau tháng 3-1975, với tất cả các đơn vị di tản từ Vùng I và II về, tình trạng đạn tồn kho trở nên tuyệt vọng.
Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở 4 kho đạn dự trữ tuột xuống chỉ còn đủ dùng trong 14 đến 20 ngày.
Tháng 4-1975, đạn tồn kho ở 4 kho đạn dự trữ tuột xuống chỉ còn đủ dùng trong 14 đến 20 ngày.
Theo Tuớng Phillip Davidson (cựu Truởng Ban Tình báo MAC-V) nhìn việc cắt giảm viện trợ bằng cái nhìn bi đát hơn:
"Từ 1974, QL VNCH đã phải đánh trận với phương tiện rất thiếu thốn. Tất cả mọi chương trình huấn luyện đều thu hẹp. Khả năng di động do phi cơ vận tải và trực thăng giảm hơn 50%. Thiếu cơ phận thay thế làm đủ mọi loại phi cơ, tàu thuyền, xe cộ phải ngưng hoạt động: cách giải quyết bằng tháo gỡ từ phương tiện này đễ tạm lắp vào phương tiện khác..chỉ làm hư hao và hủy hoại thêm quân cụ.. Thiếu thốn đạn đưa đến thêm những tổn thất nhân sự nơi chiến trường và người bị ảnh hưởng nhất là những thương binh: việc di tản cấp cứu bị chậm trễ, và nhiều khi phải dùng..xe Honda, thuyền chèo hay 4, 5 xe cứu thương, hết xăng, được kéo bằng một xe vận tải. Thương binh được đưa đến quân y viện nơi đang thiếu thuốc men, băng, dịch truyền và các phương tiện cấp cứu khác.." ( VietNam at War, trang 671-675
TÌNH TRẠNG THIẾU THỐN VŨ KHÍ ĐẠN DƯỢC CỦA VNCH NĂM 1975
Một bản báo cáo ‘mật’ với tựa đề ‘ Tình trạng đạn của Nam Việt Nam’ gửi cho Ủy Ban Quốc Hội Mỹ trong cuộc viếng thăm VN vào tháng 2,1975, ghi:
Tổng số lượng đạn cần thiết để đủ dùng trong 2 tháng được ghi là 126 ngàn tấn; Với sự cắt giảm ngân sách từ Quốc hội HK: lượng đạn bị cắt 30 % và số đạn ở mức ’an toàn’ sẽ hết vào giữa năm 1975 (Defense Department Fact sheet:”GVN Ground Ammunition Situation” to Rep. Fenwich). Từ đó sự thiệt hại của QL.VNCH ngoài chiến trường ngày càng nhiều hơn, khi chống trả sự tấn công của cs Bắc Việt, để tìm hiểu tình hình thực tế tại VN, ngày 25 tháng 3, 1975 ,TT Ford đã gửi một phái đoàn đặc biệt do Tuớng Frederic Weygand hướng dẫn đến VN. Phái đoàn của Tướng Weygand đã đưa ra những nhu cầu tối thiểu và khẩn cấp của VNCH để có thể tồn tại: "744 đại bác, 446 tank và thiết vận xa, trên 100 ngàn súng trường, trên 5000 súng máy, 11 ngàn súng phóng lựu, khoảng 120 ngàn tấn bom/đạn, cùng khoảng 12 ngàn xe vận tải’ (Without Honor: Defeat on Vietnam and Cambodia của Arnold Isaacs trang 146). Bản báo cáo này không được Quốc Hội HK quan tâm vì lý do đơn giản: ‘No more VietNam’.
SỰ KHÓ KHĂN VỀ PHÍA QL.VNCH
Một số sự kiện được những người trực tiếp phụ trách về tiếp liệu cho QL VNCH như Đại Tá Phạm Kỳ Loan, Tổng cục Phó Tổng cục Tiếp vận ghi lại:
Sau Hiệp định Paris, chúng tôi biết là viện trợ và tiếp liệu sẽ bị cắt giảm, Năm đầu tiên, tiền viện trợ còn 1.4 tỷ USD, nhưng qua năm thứ 2, chỉ còn phân nửa, Do đó tại Tổng Cục Tiếp Vận (TCTV), chúng tôi đã đưa ra khuyến cáo yêu cầu mọi ngành tiết kiệm, tìm cách để mọi người sử dụng kỹ hơn những gì đang có. Chúng tôi chú trọng nhất đến đạn vì đạn chiếm 70-80 % ngân sách được cấp.
’Đạn càng ngày càng thiếu. Bắt đầu từ 1974, chiến sự gia tăng, những cuộc đụng độ xẩy ra thường xuyên hơn, nhất là tại Khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Nhu cầu đạn tăng thêm. Các tiền đồn khi bị tấn công rất cần sự yểm trợ của Pháo binh.
Vấn đề thiếu thốn thứ nhì, sau đạn, là nhiên liệu: Nhiên liệu cho trực thăng, phi cơ chiến đấu, chiến hạm, chiến đỉnh và xe vận tải..Thời gian hoạt động của các phương tiện này bị cắt giảm bớt phân nửa. Sự kiện này không xẩy ra ngay khi HK rút quân, nhưng suy giảm từ từ , xuống còn ..phân nửa vào năm 1974.'
TCTV với sự cố vấn của DAO tìm đủ mọi cách để giữ cho QL VNCH ‘sống còn’: Những cuộc thuyết trình về tình trạng tiếp liệu đã được tổ chức tại các Vùng Chiến thuật với các Tư lệnh Vùng cùng các Sĩ quan cao cấp của Bộ Tham mưu Vùng liên hệ..Trên nguyên tác TCTV thường chỉ đáp ứng 50% yêu cầu của ‘lượng trung bình của nhu cầu‘ và để ‘có được lượng hơi đủ..các đơn vị thường..tăng thêm con số của lượng tiêu thụ chính thức. Riêng về đạn đại bác là một vấn đề gây khá nhiều ‘khó khăn’ cho các Bộ Tham mưu hành quân Vùng, vì không quân yểm trợ đã bị giới hạn, nên chỉ còn trông cậy vào Pháo binh..Nhưng PB cũng gặp khó khăn không kém. Một thí dụ do một Tướng , Phó Tư lệnh Vùng nêu ra:
Đạn dược được cấp cho các đại bác 105 ly là:
*Trung bình năm 1972 là 180 viên
* Năm 1975 là 10 viên
Đạn dược được cấp cho các đại bác 155 ly là:
* Năm 1975 là 10 viên
Đạn dược được cấp cho các đại bác 155 ly là:
* Trung bình năm 1972 là 150 viên
*Năm 1975 là 5 viên.
*Năm 1975 là 5 viên.
Đạn dược được cấp cho các đại bác 175 ly là:
* Trung bình năm 1972 là 30 viên
*Năm 1975 là 3 viên
* Trung bình năm 1972 là 30 viên
*Năm 1975 là 3 viên
KẾT LUẬN:
Nam Việt Nam rơi vào tình trạng "đói" võ khí đạn, nên đã lui quân từ tháng 3/1975 ở Ban Mê Thuột, để rồi tiếp tục di tản chiến thuật ở vùng I vùng II, rồi sau đó mất hoàn hoàn thế chủ động ở mọi chiến trường. Để biết về sự thiếu thốn về đạn dược của người lính VNCH đến mức độ nào thì hãy nhìn lại số đạn được được cấp phát vào đầu năm 1975 chỉ còn 60 viên đạn sử dụng trong 1 tuần, cấp phát đầy đũ là 400 viên đạn cho khẩu súng cơ hữu. Xin lập lại là chỉ có 60 viên M16 trong một tuần. Đạn trọng pháo bị cắt 90%, xe tăng và phi cơ bị cho nằm ụ vì thiếu cơ phận thay thế (chúng trở thành những khối sắt bất động). Vì thế VNCH đã bị người đồng minh bức tử vào tháng tư đen 1975.
Người viết xin mượn bài thơ " Tháng tư nhìn lại" của thi sĩ Phan Huy để thay lời kết, ông là một người thi sĩ miền Bắc đã thổn thức số phận VNCH qua bài thơ:
Tháng Tư Nhìn Lại
Tháng Tư năm xưa Cờ Vàng đổ xuống
Trút lên hồn tổ quốc nỗi buồn đau
Ba sọc đỏ tuông trào theo trùng sóng
Tức tưởi nghẹn ngào biển rộng rừng sâu.
Ôi chính nghĩa giống nòi cam thất bại!
Bút mực nào tả hết nỗi hờn oan
Khi lá cờ ma Cộng tà sao máu
Trùm ách búa liềm khắp cả giang san.
Khi một dân tộc hiền hoà anh dũng
Chiến đấu bảo toàn lý tưởng tự do
Bị bạn đồng minh đem đi đổi chác
Cho thế ăn thua của một cuộc cờ.
Khi một quân đội kiêu hùng bách thắng
Buông súng bể nòng hết đạn cạn lương
Bao nhiêu tướng sĩ can trường tuẫn tiết
Mắt trợn trừng nhìn đất nước tang thương.
Khi một Sài Gòn phồn vinh nhân bản
Rực rở rạng ngời hòn ngọc Viễn Đông
Cay đắng uất hờn mang tên nghiệt súc
Bẽ bàng trôi theo số phận non sông.
Tháng Tư năm nay Cờ Vàng khởi sắc
Chính nghĩa Miền Nam toả sáng quê hương
Biên khảo chính trị từ Hậu duệ VNCH Lý Bích Thuỷ, 6/4/2016 viết lại ngày 08.04.2020
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét